Tây Nương
1. Thông tin
– Tên gọi Tây Nương hay Tây Sa
Tự xưng là Tây cung vương nữ
Hiệu là Hồng Vân công chúa
Có tài liệu gọi là nàng Nguyễn
– Sinh 10/2 ALtại làng Đông Miên, huyện Chu Diên Văn Lang (nay là thôn Đông Kim, xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam).
Mất tại Văn Lang. (nay là thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam).
– Nhân vật trong huyền sử Việt Nam.
2. Gia đình và hôn nhân
– Quan hệ gia đình với chồng là Chử Đồng Tử.
3. Cuộc đời và sự nghiệp
– Trong gia đình nông dân nghèo, đức độ, hiền lành.
– Tương truyền, một đêm mẹ bà mộng thấy một con chim xanh lớn bay vào màn rồi hóa thành người con gái đẹp. Tiếp đó, thêm một người đàn bà xuất hiện ngoài màn, tự xưng là Tây cung vương mẫu từ thiên đình giáng xuống, đem con gửi nhà người trần trong 3 kỷ (36 năm). Từ đó bà thụ thai.
– Ngày 10/2 AL Tây Nương được sinh ra, lớn lên có sắc đẹp lạ thường, chim sa cá lặn, hoa tủi trăng hờn.
– Trong một lần cắt lúa bên đường, gặp Tiên Dung và Chử Đồng Tử đang đi chữa bệnh cho dân. Thấy sắc đẹp hiền lành và sự đối đáp trôi chảy nên Tiên Dung tỏ ra mến phục và kết nghĩa chị em. Sau cuộc trò chuyện tâm đầu ý hợp của ba người nên Tây Nương đã kết duyên cùng Chử Đồng Tử.
Cũng năm đó, vua cha của Tiên Dung ốm nặng, không ngự y nào chữa khỏi được. Sẵn giỏi về chữa bệnh, Tây Nương nhận lời Tiên Dung vào cung chữa cho vua Hùngnhưng không tiết lộ danh tính. Sau khi khỏi bệnh, vua định mang vàng bạc, châu báu ra tạ ơn, nhưng bà không nhạn, mà trở về chung sống với Tiên Dung và Chử Đồng Tử, tiếp tục chữa bệnh cứu dân.
Đồng hành cùng Chử Đồng Tử và Tiên Dung tìm thầy học đạo. Một hôm, mệt quá mà không có hàng quán ven đường, họ ngồi nghỉ, cắm cây gậy và úp chiếc nón lên trên. Nửa đêm, bỗng nổi lên thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng, văn võ bá quan lẫn tiên dồng ngọc nữ đều sẵn sàng hầu hạ. Hôm sau, dân chúng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt xin làm bầy tôi. Từ đó nơi ấy phồn thịnh như 1 nước riêng.
Nghe tin, Hùng Vương cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Mọi người xin chống lại, nhưng Tiên Dung từ chối với ý rằng không muốn kháng cự cha mình. trời tối, quân nhà vua đóng quân ở bãi cát cách đó một con sông. Bỗng nửa đêm, bão to gió lớn cuốn thành trì cung điện lẫn bầy tôi của vợ chồng Chử Đồng Tử bay lên trời. Chỗ nền cũ sụp xuống thành 1 cái đầm lớn.
Nhân dân gọi đó là đầm Nhất Dạ Trạch. Gọi chỗ quân nhà vua đóng quân là Bãi Tự Nhiên (hay Bãi Màn Trù), và chợ gần đó là chợ Hà Thị.
4. Hiển linh
– Sau sự kiện Tam vị đồng thăng, vua Hùng đã đến nơi xem xét. Tây Nương trở lại trên con hạc trắng bay đến, xưng là Tây cung vương nữ và nói rằng: Vâng mệnh Chử Đồng Tử và Tiên Dung đến tạ phụ vương và xin thứ lỗi cho các con”. Vua nhận ra người chữa khỏi bệnh cho mình lúc trước, lấy làm hối hận và xúc động đã phong là Nội trách Tây cung Tiên nữ – Hồng Vân công chúa, lập đền thờ để tỏ lòng nhớ công ơn.
5. Giải thưởng và vinh danh
a) Đền thờ
– Đền thờ Chử Đồng Tử gồm hai đền chính
+ Đền Hóa (nơi Chử Đồng Tử và Nhị vị phu nhân bay về trời) thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.
+ Đền Đa Hòa thuộc thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. (Đền dựng thời kỳ Pháp đốt đền Hóa, được dân gian gọi là đền “Tránh” (tránh nạn)).
– Nhiều làng thuộc các tỉnh nằm ở hạ lưu châu thổ sông Hồng như Hưng Yên, Hà Nội, Hà Nam đều có thờ đức thánh Chử Đồng Tử, Tiên Dung và Hồng Vân công chúa. Nhưng ở Hưng Yên là có nhiều đền nhất, có 45 làng cùng thờ.
– Một số đền thờ làng khác như:
+ Đền Ngự Dội làng Màn Trầu, huyện Đông Yên (nay là thôn Toàn Thắng, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam).
+ Đền làng Quan Xuyên, xã Thành Công, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.
b) Lễ hội
– Lễ hội Đa Hòa – Dạ Trạch tại 2 ngôi đền Đa Hòa và đền Hoá
6. Tham khảo