Chử Đồng Tử
1.Thông tin
– Tên gọi Chử Đồng Tử (渚童子)
– Sinh tại thôn Chử Xá, xã Văn Đức , Văn Lang. (nay thuộc huyện Gia Lâm, Tp. Hà Nội, Việt Nam)
Mất tại Văn Lang (nay là thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.
– Nhân vật trong huyền sử Việt Nam.
2. Gia đình và hôn nhân
a) Thân thế
– Bố là Chử Cù Vân
b) Hôn nhân
– Quan hệ gia đình với vợ là Tiên Dung và Hồng Vân.
3. Cuộc đời và sự nghiệp
– Trong một lần nhà bị cháy, mất hết của cải, chỉ còn lại 1 chiếc khố để hai cha con thay nhau mặc. Lúc người cha lâm chung, ông bảo giữ chiếc khố lại cho bản thân, vì thương cha nên Chử Đồng Tử đã liệm khố theo cha, mình chịu cảnh trần truồng. Kiếm sống bằng cách câu cá ban đêm, ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền cá hoặc xin ăn.
– Một hôm đang ở dưới sông thì tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập. Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thế nhưng người ta lại quây màn tắm ở ngay chỗ Chử Đồng Tử, nước xối làm lộ thân hình của Chử. Cô gái xinh đẹp bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi kết duyên vợ chồng. Đó là Tiên Dung công chúa.
– Không được sự đồng ý của vua cha, Tiên Dung không về cung nữa mà ở cùng Chử Đồng Tử, cùng nhau mở chợ Hà Thám để buôn bán. Dần chợ trở nên phồn thịnh, ai cũng kính nể hai vợ chồng.
– Có người bày cho cách ra ngoài buôn bán được nhiều lãi nên Tiên Dung khuyên chồng nên theo, cùng khách đi khắp ngược xuôi. Một hôm, qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Viên sơn, Chử Đồng Tử leo lên am trên núi gặp một tăng sĩ tên Phật Quang. Sau trò chuyện, Chử Đồng Tử giao tiền cho khách buônđi mua hàng, còn mình ở lại học phép thuật. Khi thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử 1 cây gậy và 1 chiến nón lá nhắn rằng là vạt thần thông.
Về nhà, Chử Đồng Tử kể cho vợ nghe. Tiên Dung giác ngộ, bỏ buôn bán cùng chồng chu du tìm thầy học đạo.
Chử Đồng Tử trong lúc chu du tìm thầy học đạo cùng vợ là Tiên Dung đã lấy thêm một người vợ thứ hai là Hồng Vân. Cả ba người đã giúp dân chữa bệnh.
Trong một chuyến đi chữa bệnh cho người dân, Chử Đồng Tử và Tiên Dung gặp Tây Nương đang cắt lúa bên đường đã tới hỏi chuyện. Thấy nàng có sắc đẹp lạ thường, hiền lành mà đối đáp trôi chảy, Tiên Dung tỏ ra mến phục và kết nghĩa chị em. Sau cuộc trò chuyện “tâm đầu ý hợp” của ba người, Tây Nương đã kết duyên cùng Chử Đồng Tử.
Cũng năm đó, vua Hùng cha ốm nặng, không ngự y nào chữa khỏi được. Biết Tây Nương giỏi về chữa bệnh, Tiên Dung đã nhờ nàng vào cung chữa cho vua cha. Sau khi vua Hùng khỏi bệnh định mang vàng bạc, châu báu ra tạ ơn, nhưng nàng không nhận mà trở về chung sống với Chử Đồng Tử – Tiên Dung, tiếp tục chữa bệnh cứu dân.
Một hôm tối trời, mệt quá mà không có hàng quán ven đường, họ ngồi nghỉ, cắm cây gậy và úp chiếc nón lên trên. Nửa đêm, bỗng nổi lên thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng, văn võ bá quan lẫn tiên dồng ngọc nữ đều sẵn sàng hầu hạ. Hôm sau, dân chúng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt xin làm bầy tôi. Từ đó nơi ấy phồn thịnh như 1 nước riêng.
Nghe tin, Hùng Vương cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Mọi người xin chống lại, nhưng Tiên Dung từ chối với ý rằng không muốn kháng cự cha mình. trời tối, quân nhà vua đóng quân ở bãi cát cách đó một con sông. Bỗng nửa đêm, bão to gió lớn cuốn thành trì cung điện lẫn bầy tôi của vợ chồng Chử Đồng Tử bay lên trời. Chỗ nền cũ sụp xuống thành 1 cái đầm lớn.
Nhân dân gọi đó là đầm Nhất Dạ Trạch. Gọi chỗ quân nhà vua đóng quân là Bãi Tự Nhiên (hay Bãi Màn Trù), và chợ gần đó là chợ Hà Thị.
4. Hiển linh
– Vào đời nhà Lý, Trần Bá Tiên nhận lệnh nhà Hậu Lương, nam tiến đánh bại quân lực của Lý Nam Đế. Vua Lý sai Triệu Quang Phục đem quân nấp ở đầm Nhất Dạ Trạch, địa hình sâu rộng của đầm đi lại rất khó khăn, quân Lương vướng mắc, Quang Phục bèn dùng thuyền độc mộc đánh cướp lương thực, cầm cự 3 – 4 năm không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: “Ngày xưa nơi đây là chằm một đêm bay về trời, nay lại là chằm một đêm cướp đoạt người”.
Nhân gặp lọan Hầu Cảnh, Lương Đế bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tỳ tướng là Dương Sằn thống lĩnh. Quang Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương cầu đảo, bỗng thấy thần nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo với Quang Phục: “Hiển linh còn đó, ngươi có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn”.
Dứt lời, tháo vuốt rồng trao cho Triệu Quang Phục bảo: “Đem vật này đeo lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị diệt”. Rồi bay lên trời mà đi. Được vật thiêng, Triệu Quang Phục xông ra dột chiến, quân Lương thua to, chém Dương Sằn trước trận.
5. Giải thưởng và vinh danh
a) Đền thờ
– Đền thờ Chử Đồng Tử gồm hai đền chính
+ Đền Hóa (nơi Chử Đồng Tử và Nhị vị phu nhân bay về trời) thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.
+ Đền Đa Hòa thuộc thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. (Đền dựng thời kỳ Pháp đốt đền Hóa, được dân gian gọi là đền “Tránh” (tránh nạn)).
– Nhiều làng thuộc các tỉnh nằm ở hạ lưu châu thổ sông Hồng như Hưng Yên, Hà Nội, Hà Nam đều có thờ đức thánh Chử Đồng Tử, Tiên Dung và Hồng Vân công chúa. Nhưng ở Hưng Yên là có nhiều đền nhất, có 45 làng cùng thờ.
– Một số đền thờ làng khác như:
+ Đền Ngự Dội làng Màn Trầu, huyện Đông Yên (nay là thôn Toàn Thắng, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam).
+ Đền làng Quan Xuyên, xã Thành Công, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.
b) Lễ hội
– Lễ hội Đa Hòa – Dạ Trạch tại 2 ngôi đền Đa Hòa và đền Hoá
c) Suy tôn
– Một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng Việt Nam.
6. Tham khảo