Trịnh Phiến (1503 – 1570)

1. Thông tin

– Tên gọi: Trịnh Phiến hay Trịnh Kiểm (鄭檢)

Thụy hiệu: Minh Khang Thái vương (世祖明康太王). Miếu hiệu: Thế Tổ (世祖)

– Sinh ngày 14/9/1503 (tức ngày 24/8/Quý Hợi) tại thôn Hổ, xã Vệ Quốc, huyện Yên Định, xứ Thanh Hoa, Đại Việt (nay là tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam). Quê gốc tại làng Xáo Sơn, huyện Vĩnh Ninh, Thanh Hoa, Đại Việt (nay là làng Sóc Sơn, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam)

Mất ngày 24/3/1570 (tức ngày 18/2/Canh Ngọ) (66 tuổi) tại (nay là )

– Giới tính: Nam

– Quốc tịch: Đại Việt

Dân tộc: Kinh

– Là chính trị gia thời Lê – Mạc trong lịch sử Việt Nam

2. Hôn nhân và gia đình

a) Thân thế

– Bố là Trịnh Lâu và mẹ là Hoàng Thị Dốc

b) Hôn nhân và con cái

– Quan hệ gia đình với 5 vợ là Lại Thị Ngọc Trân, Nguyễn Thị Ngọc Bảo, Trương Thị Ngọc Lãnh, 4, Nguyễn Thị Ngọc Cẩm.

– Có 7 người con: (5 con trai và 2 con gái)

Con trai: Trịnh Cối, Trịnh Tùng, Trịnh Đỗ, Trịnh Đồng, Trịnh Ninh.

Con gái: Trịnh Thị Ngọc Xuân, Trịnh Thị Ngọc Tôn.

c) Hậu duệ

– Cháu nội: Trịnh Tráng

3. Con người và tính cách

Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư do sử thần Đại Việt thời Lê trung hưng soạn có ghi: Lượng quốc công càng dốc lòng trung trinh, mọi việc đều quyết đoán rõ ràng, công việc đều đâu ra đấy cả.

4. Cuộc đời và sự nghiệp

Con một trong gia đình.

Cảnh Thống thứ 6, triều vua Hiến Tông Duệ hoàng đế Nhà Hậu Lê.

Năm 1509 khi 6 tuổi cha mất. Từ đó gia cảnh sa sút, bị người ta khinh khi, Trịnh Kiểm bèn bỏ Biện Thượng về lại quê cũ là Sóc Sơn, sinh sống bằng cách chăn trâu thuê trong núi Lệ Sơn, trong lúc đi chăn thường cùng lũ trẻ mục đồng lấy trâu bò voi ngựa, bẻ bông lau làm cờ, tập trận mạc, có khí khái như Đinh Tiên Hoàng khi xưa.

Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí ghi: Thuở hàn vi nghèo túng, thường phải đi ăn trộm để nuôi mẹ. Lớn lên có sức khỏe hơn người, đi theo Nguyễn Kim.

Có một giai thoại nổi tiếng kể về lòng hiếu thuận của ông: Thiếu thời ông là một người mồ côi cha nên rất hiếu thuận với mẹ. Một hôm mẹ ông bị ốm nên buột miệng nói thèm thịt gà, nhà nghèo không có tiền nên ông đi ăn trộm gà nhà bên cạnh. Nhà hàng xóm thấy đàn gà cứ mất dần liền sinh nghi bèn rình và bắt được ông đang ăn trộm rồi kiện lên quan. Khi tra hỏi thì ông nói là vì mẹ ốm, nhà nghèo không có gì bồi bổ cho mẹ nhanh khỏe nên ông mới đi ăn trộm. Quan nghe xong mủi lòng thương nhưng người hàng xóm nhất quyết không chịu vì ông ăn trộm không chỉ một lần với lại thời loạn lạc giá trị của con gà rất lớn. Bức bí vì không biết phải xử sao nên quan quyết định xử tội mẹ ông 30 trượng vì bà không dạy con lại còn ăn thứ con ăn trộm. Mẹ ông vốn thân đàn bà, tuổi cao sức yếu lại thêm đang bị bệnh nên bà đau quá mà chết đi (cũng có người nói rằng bà mẹ bị quăng xuống giếng cho chết chìm vì thời xưa luật pháp coi rẻ phụ nữ, nhất là phụ nữ có con trộm cắp). Mất đi người thân duy nhất nên ông vô cùng phẫn uất và không còn thiết tha gì với cuộc sống hết. Ông đi lính, không còn mẹ già mong ngóng nên ông càng chán chường nên lao vào chém giết giặc mà không sợ bị chết. Thấy một viên tướng trẻ tuổi lại dũng cảm khác thường nên Nguyễn Kim rất ưng thuận nên cất nhắc dần dần và cuối cùng còn gả con gái cho và phong tước rất trọng.

Năm 1520 (Đinh Hợi) khi 17 tuổi thì hùng dũng hơn người, trí lực khác thường. Được mẹ đem đến xin Ninh Bang hầu cho làm gia thần. Ninh Bang hầu mừng vui thu nhận và cho trông coi trại ruộng ở sách Thọ Liêu, nuôi trâu ngựa. Hằng ngày, được người bạn gốc Chàm là Vũ Thì An dạy cho cách huấn luyện ngựa, có thể biết được ngựa hay. Một thời gian sau, Trịnh Kiểm ăn cắp con ngựa tốt nhất chạy sang Mường Sùng Cổ Lũng, Bá Thước, bấy giờ là nước Ai Lao, còn bà mẹ phải trốn về quê mình là làng Vệ Quốc. Trịnh Kiểm đi theo anh họ là Trịnh Quang, lúc đó đã theo Nguyễn Kim, và đón mẹ Trịnh Kiểm sang ở. Ninh Bang hầu biết tin Trịnh Kiểm ăn cắp ngựa của mình, bỏ đi nhiều ngày không về, nên rất tức giận, bèn sai quân lính, dân các xã Sóc Sơn, Biện Thượng lùng bắt mẹ con Trịnh Kiểm. Xã trưởng Biện Thượng tìm thấy mẹ con Trịnh Kiểm đang nấp sau nhà không những không bắt mà còn ra hiệu bằng cách ném đất và nháy mắt cho Trịnh Kiểm chui qua mấy tầng rào chạy trốn đến nhà người tên Nữu ở Yên Định. Người này đã bới đống thóc trong bồ lớn, cho Trịnh Kiểm chui vào đó rồi lấp lúa lại. Ninh Bang hầu tìm không thấy tung tích của Trịnh Kiểm nên tức tối bắt mẹ ông giam lại. Ba ngày sau, Ninh Bang hầu bắt xã Sóc Sơn đem lồng tre nhốt mẹ Trịnh Kiểm, kèm tảng đá lớn bỏ vào trong rồi ném xuống sông. Bạn thân Vũ Thì An sai con là Vũ Đình Tùng chạy đến xã Cổ Lũng mật báo cho Trịnh Kiểm biết. Nghe xong câu chuyện, Trịnh khóc sướt mướt mà than: “Người làng ta sao mà nhẫn tâm phụ bạc với ta như vậy. Ngày sau, nếu ta sáng nghiệp lớn, thề không về làng cũ nữa”.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung người Hải Dương cướp ngôi Nhà Lê, lập nên Nhà Mạc, lấy niên hiệu Minh Đức. Lúc ấy con cháu các công thần đời trước phát xuất từ Thanh Hóa không phục, liên tiếp khởi binh chống lại. Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thành hầu Nguyễn Kim, con cháu một gia đình vọng tộc lớn đã nhiều đời làm quan Nhà Lê, bèn lánh sang Ai Lao, tụ tập binh mã, mưu tính việc khôi phục Nhà Lê.

Năm 1533, Nguyễn Kim lập con trai của Hoàng đế Lê Chiêu Tông lên ngôi, tức Hoàng đế Lê Trang Tông. Trang Tông phong Nguyễn Kim là Thái sư Hưng quốc công. Thế Nam Bắc triều hình thành. Trịnh Kiểm đến đầu quân cho Nguyễn Kim ở đồn Mường Sùng thuộc Ai Lao, được phong làm Tri Mã cơ, tước Dực Nghĩa hầu. Được Nguyễn Kim giao cho nhiều trọng trách và gả con gái là Ngọc Bảo cho.

Theo Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài của Alexandre De Rhodes: Khi quân Mạc tấn công vào kinh thành, quân Nguyễn Kim bị vây giữa vòng vây của địch. Kim đã giao ước với các tướng rằng ông sẽ gả con gái cho ai có thể giải cứu ông và nghĩa quân ra khỏi vòng vây ấy. Trịnh Kiểm phi ngựa xông lên hăng hái đánh giết giặc, cứu được Kim và mở đường huyết lộ cho nghĩa quân rút lui. Vì vậy, theo lời hứa, Nguyễn Kim gả con gái là Ngọc Bảo cho Kiểm và giao nhiều trọng trách cho ông, đặc biệt là việc huấn luyện kị binh cho nghĩa quân.

Theo sách Đại Việt thông sử, Trịnh Kiểm có sức khỏe và tài lược hơn người, theo Nguyễn Kim đi đánh dẹp khắp nơi, lập nhiều chiến công, được Nguyễn Kim gả con gái cho.

Năm 1539 được Hoàng đế Lê Trang Tông phong làm Đại tướng quân, tước Dực Quận Công do có công cầm binh mã sang Ai Lao đón Lê Trang Tông. Hoàng đế cũng coi ông là một đại tướng tâm phúc, ban ấn tướng quân, quản lĩnh quân giao chiến với Nhà Mạc ở các vùng Thanh Hoa, thắng quân Mạc ở Lôi Dương.

Năm 1541  Mạc Đăng Dung chết, quân Nguyễn Kim tiến về đánh Thanh Hóa, Nghệ An.

Năm 1543, thu phục được thành Tây Đô (Thanh Hóa).

Năm 1545, Lê Trang Tông thân chinh đánh Mạc, đóng bản doanh ở hạt Yên Mô (Ninh Bình ngày nay) tướng cũ của Nhà Mạc là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất đầu độc chết Thái sư Nguyễn Kim. Trước khi chết, Nguyễn Kim giao lại toàn bộ binh mã cho Trịnh Kiểm. Toàn bộ binh quyền của Nhà Lê vào tay Trịnh Kiểm. Tháng 8 âm lịch vua Bắc triều Mạc Phúc Hải sai Thái tể Ninh quốc công Mạc Phúc Tư dùng quân ngũ phủ và các trấn đánh úp bản doanh của Lê Trang Tông. Khi quân Mạc tới sông Phù Chẩn, Trang Tông đích thân ra đánh, Dực quận công Trịnh Kiểm làm Đề thống ngự doanh, dẫn quân tiên phong phá tan quân Mạc. Quân Mạc chết hại vô số, Ninh quốc công phải trốn về Bắc. Trịnh Kiểm được hoàng đế phong làm Đô tướng tiết chế các dinh quân thuỷ bộ các xứ kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, hàm Thái sư, tước Lượng quốc công. Quyết định mọi công việc trong nước, bao gồm cả việc bổ nhiệm quan lại rồi mới tâu vua sau.

Năm 1546 rút binh về Thanh Hóa, lập hành điện cho vua Lê Trang Tông ở sách Vạn Lại (huyện Thụy Nguyên, Thanh Hóa), rồi chiêu mộ anh hùng hào kiệt, huấn luyện quân sĩ, tích trữ lương thảo tính kế đánh họ Mạc. Nước Đại Việt lúc này chia làm hai, từ Thanh Hóa trở vào nam thuộc Nhà Lê do Thái sư Trịnh Kiểm thống lĩnh; từ Sơn Nam trở ra thuộc về họ Mạc, tức Bắc triều. Mỗi khi có việc đánh dẹp, đều do Trịnh Kiểm thống lĩnh, đánh đâu được đấy. Do vậy, các hào kiệt đất Hoan, Diễn (Nghệ An), Ô (Thừa Thiên, Huế), Quảng (Quảng Nam, Đà Nẵng) đua nhau tới theo, đất Ái Châu (Thanh Hóa) yên dần. Vua Bắc triều Mạc Phúc Hải chết, người con Phúc Nguyên nối ngôi. 

Năm 1548, vua Trang Tông mất, Thái sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm cho lập con lớn của Trang Tông là Duy Huyên lên nối ngôi, sử gọi là Trung Tông. Lúc này Bắc triều sau cái chết của Mạc Phúc Hải, người con Phúc Nguyên lên thay, có phe khác mưu lật đổ, Phúc Nguyên bỏ chính điện ở Thăng Long, dời ra ngoại thành khiến cho trong cõi rối loạn.

Năm 1550, do bị gièm pha nên viên trọng thần Bắc triều là Thái tể Phụng Quốc Công Lê Bá Ly đem toàn quân hai đạo Sơn Tây, Sơn Nam, hơn một vạn ba ngàn đến Thanh Hóa đầu hàng. Bá Ly lại viết thư dụ được nhiều mưu thần, mãnh tướng phía Bắc theo về Nam triều như Nguyễn Hữu Liêu, Đặng Huấn.

Năm 1551 giao binh cho Lê Bá Ly đánh Sơn Nam, Vũ Văn Mật đánh Tuyên Quang, rồi cùng ông tụ hội ở Thăng Long. Trước khi ra quân, ông viết 1 bức thư Nôm, kêu gọi mọi người hãy nhớ đến công ơn vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) năm xưa đã đánh đuổi giặc Minh, giành độc lập cho đất nước… để đồng lòng tôn phò vua Lê, tiêu diệt kẻ soán ngôi. Rồi cùng 3 tướng đồng loạt ra quân.

Năm 1552 ông đem quân đánh dẹp miền tây nam, tướng Mạc là Nguyễn Khải Khang về hàng. Sau khi chiếm thành, ông liền rút quân về Tây Đô để tránh quân Mạc huy động thêm viện binh đánh úp. Tháng 5 Trịnh Kiểm xuất quân từ Hưng Hóa qua sông Thao đến An Lạc. Ông đánh bại quân Mạc do Khiêm vương Mạc Kính Điển chỉ huy. Kế tiếp ông tiến thẳng đến Xuân canh Lâm Hạ, thắng thêm vài trận nữa. Mạc Phúc Nguyên sợ hãi, bỏ chạy ra Kim Thành. Quân Nhà Lê tiến vào Đông Kinh, mở tiệc khao thưởng tướng sĩ. Quân Nhà Lê chiếm một loạt các phủ vùng Sơn Tây, Sơn Nam; bên Mạc chỉ còn hai đạo Đông, Bắc. Nguyễn Khải Khang và Lê Bá Ly bàn nên đón Hoàng thượng về Thăng Long, nhưng Trịnh Kiểm cho rằng Nhà Mạc hãy còn mạnh, nhân tâm cũng chưa hẳn đã hướng về Nhà Lê, nên không ký tên vào tờ biểu. Nhà vua xem tờ biểu, biết ý của ông, bèn hạ lệnh lui quân về. Mạc Phúc Nguyên nghe tin quân Nam triều rút lui, bèn sai quân truy kích ở núi Công. Nhưng Trịnh Kiểm đánh tan truy binh Mạc, rồi trở về Thanh Hóa.

Năm 1554, dời hành dinh đến Biện Thượng. Trịnh Kiểm cho rằng lúc này sĩ khí đang lên, bèn sai các tướng xuất quân bình định đất Hóa châu ở phía Nam. Do Viên Đàm bá là Hoàng Bôi chiếm giữ, quân Nam triều giết Hoàng Bôi, bình định đất Hóa châu, tức hai xứ Thuận, Quảng. Thu thập các hào mục và sinh viên trong xứ, bổ nhiệm các chức vụ, khiến cho xứ này được yên. Mở khoa thi Nho học. Dời hành dinh của vua Lê đến Biện Thượng. Ông cho rằng lúc này sĩ khí đang lên, bèn sai các tướng xuất quân bình định đất Hóa châu ở phía Nam. Do tướng Mạc là Viên Đàm bá Hoàng Bôi đang chiếm giữ, quân Nam triều giết Hoàng Bôi, bình định đất Hóa châu, tức hai xứ Thuận, Quảng. Thái sư Trịnh Kiểm thu thập các hào mục và sinh viên trong xứ, bổ nhiệm các chức vụ, khiến cho xứ này được yên.

Tháng 8/1555, Bắc triều đã tập hợp quân sĩ đầy đủ, phòng thủ các nơi hiểm yếu, trong cõi tạm yên, vua Mạc Phúc Nguyên liền sai Mạc Kính Điển đem quân vào đánh Thanh Hóa. Lấy Thọ quận công làm tiết chế quân Nam đạo, dẫn 100 chiến thuyền làm quân tiên phong, tiến thẳng tới cửa biển Thần Phù. Sau Mạc Kính Điển hội quân đóng ở sông Đại Lại, sai Thọ quận công đóng quân ở Kim Sơn. Khiêm vương Mạc Kính Điển là một đối thủ lớn của Lượng quốc công Trịnh Kiểm và phe Lê – Trịnh. Trịnh Kiểm đại hội bàn với các tướng: Giặc cậy đông khinh ta, ta dùng kế mai phục đợi chúng, thế nào cũng bắt được. Bèn dặn dân hai bên bờ không được kinh động, ông tự mình cầm quân đặt phục binh trước ở núi Bạch Thạch phía Bắc Sông, lại sai binh tượng hùng mạnh mai phục dưới núi Kim Sơn, lại sai Thái úy Hùng quốc công Đình Công đốc suất các tướng cũ của Nhà Mạc đầu hàng quân Nam triều là Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang,… cùng quân bản bộ mai phục ở phía nam sông. Từ núi Yên Định cho tới núi Quân An, thì sai Phạm Đốc và Nguyễn Quyện dẫn thủy quân chiếm cứ thượng lưu từ sông Hữu Chấp đến sông Kim Bôi để làm thế ỷ giốc. Khi quân Mạc đi quan Kim Sơn, đến chợ Ông Tập, họ vẫn tự cho hùng mạnh, không đề phòng, trong quân nổi tiếng đàn sáo ca hát, như vào chỗ không người. Khi đến trưa, Đinh Công và Lê Bá Ly cho nổ 7 tiếng pháo làm hiệu, tung quân ra đánh; quân và voi ngựa từ hạ lưu qua sông đánh chặn ngang vào hậu quân Nhà Mạc, thủy quân thượng lưu đánh vào mặt tiền, rồi quân bốn mặt ập vào phá tan quân Mạc. Thọ quận công phải nhảy xuống sông, bị Triều quận công Vũ Sư Thước bắt sống. Tướng Mạc là Vạn Đôn hầu cùng vài mươi tướng tá đều bị chết đuối, Kính Điển thu thập tàn quân chạy về Thăng Long. Trịnh Kiểm dâng biểu báo thắng trận lên vua Lê Trung Tông. Nhà vua sai chém Thọ quận công cùng mấy chục tướng Mạc khác ở núi Đồng Lộc.

Năm 1556, Hoàng đế Trung Tông mất không có con nối. Trịnh Kiểm lúc đó bàn với các đại thần: Nước không thể một ngày không có vua. Liền sai người tìm con cháu họ Lê, tìm được cháu 4 đời của ông Lê Trừ (anh trai vua Lê Thái Tổ) ở làng Bố Vệ huyện Đông Sơn tên là Duy Bang lên làm vua, tức là Lê Anh Tông

Tháng 7/1557, Mạc Phúc Nguyên sai Mạc Kính Điển lại đánh Thanh Hóa, cho các tướng Phạm Quỳnh, Phạm Dao đem quân thủy vượt biển tấn công Nghệ An. Quân thủy của Mạc Kính Điển đến sông Thần Phù và vùng Tống Sơn, Nga Sơn đốt quá hết cầu nổi của quân Nam triều. Trịnh Kiểm sai Thanh quận công đóng quân ở Nga Sơn, Thụy quận công đóng ở Tống Sơn, quân Nhà Mạc không tiến lên được. Trịnh Kiểm tự mình cầm quân, đi ngầm theo núi Yên Mô, tới thẳng cửa biển, phóng quân đánh vào sau lưng quân Mạc, khiến cho quân Mạc bị kẹp vào giữa. Khi giao chiến, Trịnh Kiểm sai Vũ Lăng hầu Phạm Đức Kỳ người Hoằng Hóa, làm tiên phong. Gặp thuyền của Mạc Kính Điển, Phạm Đức Kỳ nhảy vọt sang thuyền, tuốt gươm chém tên cầm dù làm hai đoạn rơi xuống sông, Kính Điển không kịp trở tay, nhảy xuống sông trốn. Quân Mạc tan vỡ, binh lính chạy vào rừng núi, quân Nam triều bắt được nhiều khí giới. Mạc Kính Điển nhảy xuống sông, bơi vào ẩn nấp ở một hang núi ở xã Trị Nội, trong ba ngày rất đói khát. Một đêm nhân có cây chuối trôi qua cửa lạch, liền ôm cây chuối, tìm lối bơi về, may có tới bến Trinh Nữ, hạt Yên Mô có người cứu nên thoát về được. Sau khi đánh bại cánh quân do Mạc Kính Điển chỉ huy, Trịnh Kiểm dùng ngay chiến thuyền của Kính Điển, chở tinh binh cắm cờ hiệu của Nhà Mạc, sai Phạm Đốc dẫn chiến thuyền tới cửa biển Đan Nhai. Tướng Mạc là Phạm Quỳnh và Phạm Dao đóng ở đồn Tả Ao, hạt Nghi Xuân, trông thấy chiến thuyền, tưởng là quân mình đến tiếp ứng nên không đề phòng. Phạm Đốc thẳng tới đánh úp, khiến cho quân Mạc tan vỡ, hai tướng bỏ thuyền chạy về Bắc. (Tháng 9 ÂL) ông dẫn 5 vạn quân bắc phạt đánh ra trung lộ Sơn Nam, đến sông Phượng Si làm cầu nổi qua sông, tiến đánh phá quân Bắc triều, bắt sống được tướng Mạc là Khánh quốc công. Quân đi đến đâu cũng không đụng đến của cải của dân, Nhân dân đều mến phục, đua nhau đem rượu, gạo, trâu bò, lương thực, đến cung cấp cho quân. Quân Trịnh Kiểm chiếm giữ hạ lộ Sơn Nam, tiến đến hạt Giao Thủy, họ Mạc liền sai Nguyễn Quyện đem quân chống cự. Gia đình Nguyễn Quyện trước phục vụ cho nhà Mạc, sau đầu hàng Trịnh Kiểm, rồi lại theo về Nhà Mạc, nên biết rõ tình hình quân Nam triều. Trịnh Kiểm biết vậy, tức giận, tự mình thống lĩnh bộ binh, sai Phạm Đốc chỉ huy thủy binh, sai Vũ Lăng hầu Phạm Đức Kỳ làm tiên phong dẫn thủy binh tấn công. Nguyễn Quyện và Phạm Đức Kỳ giao chiến kịch liệt, Đức Kỳ vươn mình nhảy sang thuyền Nguyễn Quyện, Quyện xông ra chém, Đức Kỳ nhảy xuống nước. Quyện nhảy sang thuyền Đức Kỳ chém người cầm lọng, rồi hô to lên rằng: Đã chém đầu Vũ Lăng hầu đây rồi. Chúng mày sao địch nổi ta. Quân Trịnh Kiểm nghe vậy, tan vỡ, bỏ thuyền chạy lên bờ. Trịnh Kiểm sai thu quân trở về, sai Hoàng Đình Ái chặn hậu. Nhưng quân Nhà Mạc chặn mất lối về, quân Trịnh Kiểm phải hết sức vất vả chiến đấu, mới qua được, mất vài chục tướng, thuyền mảng khí giới phải bỏ hết. Từ đây Sơn Nam lại thuộc về Nhà Mạc.

Tháng 9/1558, Trịnh Kiểm lại xuất quân ra đánh thượng lộ xứ Sơn Nam, kinh lược vài huyện rồi trở về, lưu Thái úy Nguyễn Khải Khang ở lại trấn thủ và chiêu tập dân địa phương. Đà quận công Mạc Ngọc Liễn, là cháu gọi Nguyễn Khải Khang bằng cậu, sai thổ dân ở Mỹ Lương trá hàng, rồi lừa bắt Khải Khang giải về triều Mạc, bị xé xác. Tháng 10 Trịnh Kiểm tâu với vua Lê về chiến lược đánh Nhà Mạc, ông tâu lên vua Lê đại ý rằng: Thuận Hóa ngày trước là kho tinh binh, Lê Thái Tổ dùng lính ấy mà định thiên hạ, địa hình hiểm trở, nhiều nguồn lợi trên rừng, dưới biển, về phương diện trọng yếu không có xứ nào có thể hơn. Vậy nên hết sức giữ gìn, để làm như một bức bình phong vững chắc. Còn như lối đường tự xứ Nghệ An vào, thì vì đường thủy đường bộ xa cách, có thể khỏi phải để ý lo ngại. Duy từ Hải Dương và xứ Quảng Yên, khi nhân thuận chiều gió Nam, giặc phóng thuyền ra biển, thì chỉ vài ngày có thể đến địa phận, sợ binh triều Mạc dễ thừa cơ xâm lược bằng nẻo đường này, nên cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ này. Thuận Hóa yên rồi, chúng ta bắt đầu kinh lý xứ Sơn Nam và xứ Sơn Tây, rồi thứ đến khôi phục Kinh đô cũ, nghiệp đế có thể thành công. Vua Lê Anh Tông đồng ý, từ đó Nguyễn Hoàng dẫn con em Thanh Nghệ tiến vào cai trị xứ Thuận Hóa, quân Mạc không vượt biển bằng đường thủy nhòm ngó Thuận Hóa nữa. Trịnh Kiểm tích cực vỗ trị quân dân, luyện tập tướng sĩ, thu dụng nhân tài, tích trữ khí giới lương thực để chuẩn bị một trận đánh đại qui mô nhằm thống nhất quốc gia. Ông bàn với các tướng đại ý rằng: Quân Nam triều thường đi qua lộ Sơn Nam, quân Mạc đem thủy bộ lục binh trấn giữ; chỉ có lộ thượng Sơn Tây, xứ Tuyên Quang, Hưng Hóa nhà Mạc không phòng bị. Vậy nay nên xuất binh từ lối Thiên Quan, đi qua xứ Hưng Hóa; qua đò sông Thao, rồi đi theo chân núi, lược định hai xứ Thái Nguyên và Lạng Sơn, phủ dụ dân biên thùy, chiêu tập hào kiệt, sau mới xua quân xuống xứ Kinh Bắc, chia quân đánh vào Sơn Nam, Hải Dương, lúc ấy Nhà Mạc chỉ giữ được thành Thăng Long mà thôi. Ta chỉ lo các huyện xứ Thanh Hóa, các cửa biển đều là khen khóa cốt yếu của nội kỳ, cần canh phòng, lúc ấy đại sự sẽ thành. Xứ Thuận Hóa là một kho tinh binh trong thiên hạ, buổi đầu, quốc triều ta bắt đầu gây dựng cơ nghiệp, cũng đã dùng dân xứ ấy để dẹp giặc Ngô. Xứ ấy, địa thế hiểm trở, dân khí kiên cường, lại có nhiều nguồn lợi trên rừng dưới biển, là vùng trọng yếu, không xứ nào hơn, gần đây quan quân kinh lược hàng mấy chục năm mới lấy được. Vậy nên hết sức bảo vệ, để làm một bức bình phong vững chắc…Hạ thần xét thấy con trai thứ của Chiêu Huân Tĩnh công là Nguyễn Hoàng, là một người trầm tĩnh cương nghị, lại có mưu lược, đối với quân sĩ có độ lượng khoan dung giản dị. Vậy xin bổ ông làm trấn thủ, để trị an nơi biên thùy và chống giặc ở miền Bắc kéo vào, và lại cùng Trấn quận công ở xứ Quảng Nam cùng làm thế cứu viện lẫn nhau… Vua Lê đồng ý, Trịnh Kiểm liền cử Phong quận công Trịnh Quang làm Đề đốc ngự doanh; Phù quận công Lê Chủng làm trấn thủ đạo Thanh Hoa, Trào quận công Vũ Sư Thước và An quận công Lại Thế Khanh cùng lĩnh tinh binh trấn thủ cửa biển. Cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, sắc cho mọi việc được chuyên trách, chỉ hàng năm phải cống thuế.

Tháng 9/1559, Trịnh Kiểm cầm 6 vạn quân nói phao lên 12 vạn quân. Đại quân tiến từ Thiên Quan tới thượng lộ Sơn Tây, đến đâu đều không phạm của dân, người dân quy phục. Khi đến Tuyên Quang, Hưng Hóa, tướng Tây đạo là Định quận công đem quân đến hội. Định quận công được sai trấn giữ An Tây và Đại Đồng để củng cố phiên trấn và mở đường từ Thiên Quan nối liền với Hưng Hóa, Tuyên Quang, thông đến Kinh Bắc để vận tải lương thực cung cấp cho quân. Tháng 10, Trịnh Kiểm đem quân đánh dẹp các xứ Kinh Bắc, đóng dinh ở phủ Thuận An, cầm cự với quân Mạc, sau dời đến núi Tiên Du. Tháng 11, xua quân đánh phủ Khoái Châu, Hồng Châu và các huyện Siêu Loại, Văn Giang, quân Mạc bỏ chạy. Tháng 12, lại đánh phủ Khoái Châu, Hồng Châu, Nam Sách, quân Mạc tan vỡ.

Tháng 2/1560, Mạc Phúc Nguyên sai tướng giữ thành Thăng Long, bên ngoài đóng một dải dọc sông về phía tây, trên từ Bạch Hạc, dưới đến Nam Xang, dinh trại liền nhau, thuyền ghe san sát, ban ngày phất cờ gióng trống báo nhau, ban đêm đốt lửa làm hiệu để chống quân Nam triều. Trịnh Kiểm chia quân đi đánh Đông Triều, Giáp Sơn, Chí Linh, An Đông, đều lấy được, vua Mạc phải dời ra Thanh Đàm. Trịnh Kiểm sai Hoàng Đình Ái trấn thủ Lạng Sơn, Lê Khắc Thận trấn thủ Thái Nguyên, Vũ Văn Mật trấn thủ Tuyên Quang, 3 trấn này liên lạc và cứu viện lẫn nhau, sự liên lạc từ Thiên Quan tới Kinh Bắc không bị gián đoạn.

Năm 1561 quân Nhà Mạc bị bao vây nguy cấp, có người hiến kế cho Phúc Nguyên đại ý rằng: Dùng cách cầm cự với quân Nam triều chờ cho họ hết lương là sai lầm, vì đường vận tải của họ thuận tiện, đã đóng quân hai năm nay. Chi bằng xuất kỳ bất ý đánh vào Thanh Hoa, thì họ sẽ tự rút quân về. Đó gọi là kế đánh đánh nước Ngụy để cứu nước Hàn của Tôn Tử vậy. Mạc Phúc Nguyên nghe theo kế sách ấy, liền điều Kính Điển về, cho người khác thay trấn thủ Kinh Bắc. Tháng 7 Mạc Kính Điển dùng thủy binh đánh vào cửa biển, hòng cướp Thanh Hóa. Các tướng Nam triều hoảng hốt, vội rút quân về giữ sách Vạn Lại; Trịnh Kiểm điều Hoàng Đình Ái đem quân về trấn thủ Thanh Hóa. Tháng 9, Kính Điển đánh vào cửa An Trường, sắp tới sách Vạn Lại, quân Nam triều dùng phục binh đánh bại quân tiên phong, Kính Điển lại nghe tin quân Hoàng Đình Ái sắp về, liền rút quân về Bắc. Trịnh Kiểm cũng rút hết quân, lui về Thanh Hóa.

Năm 1564, Mạc Phúc Nguyên chết, con đích là Mạc Mậu Hợp lên thay, mới 2 tuổi, mọi việc do Mạc Kính Điển và Mạc Đôn Nhượng phụ tá.

Tháng 9/1565, Thái sư Trịnh Kiểm phát binh đánh ở lộ Sơn Nam, đánh đâu cũng thắng. Mạc Kính Điển lại dùng thủy binh tiến vào đánh Thanh Hóa. Kính Điển đánh bại quân Nam triều một trận lớn, Trịnh Kiểm vội dẫn quân về, Kính Điển lại rút binh về bắc. Mở khoa thi Nho học.

Tháng 9/1566 ông lại tiến đánh các hạt Gia Viễn và Phụng Hóa rồi dẫn quân về.

Tháng 3/1568, trấn thủ Quảng Nam là Trấn quận công Bùi Tá Hán chết, Trịnh Kiểm chọn Nguyên quận công Nguyễn Bá Quýnh (người Nghệ An) làm tổng binh coi giữ đất ấy. Tháng 4 mùa hạ, dù đang bị bệnh, ông vẫn cố gượng ra trận, đánh phá các huyện Yên Mô, Yên Khang, Phụng Hoá, Gia Viễn, hạ lệnh thu thóc lúa rồi về.

Năm 1569, vua Lê Anh Tông gia phong cho làm Thượng tướng Thái Quốc Công và tôn là Thượng phụ. Quyền lực đã bao trùm triều đình, tuy chưa lấy lại Đông Kinh nhưng công lao trung hưng là có đóng góp rất lớn của ông.

Tháng 9/1569 mùa thu, Nguyễn Hoàng từ Thuận Hóa về Thanh Hóa yết kiến nhà vua ở An Trường, rồi vào phủ Thượng tướng lạy mừng Trịnh Kiểm, hai bên tâm tình rất thân thiết. Tháng 10 Thượng tướng Trịnh Kiểm đau nặng, xin trí sĩ, cho con là Tuấn Đức hầu Trịnh Cối lên thay. Làm Thượng tướng Thái quốc công

Ngày 24/3/1570 (tức ngày 18/2/Canh Ngọ, niên hiệu Chính trị thứ 13) ông từ trần, hưởng thọ 68 tuổi, Anh Tông sai con trưởng của Trịnh Kiểm là Trịnh Cối làm Đạt quốc công nắm binh quyền.

5. Giải thưởng và tôn vinh

Vị chúa đầu tiên của họ Trịnh.

Thụy hiệu là Minh Khang Nhân Trí Vũ chinh hung lược Hiển đức phong công Khải nghiệp hoành mô Tế thế trạch dân Kiến ưu khuông bích Triệu tường dụ quốc Quảng vạn hoằng mô Dụ hậu diễn phúc Tĩnh bích tá mạn Thùy hưu đốc bật Khai quốc cương nghị Phụ quốc tán trị Nghi uy triệu vũ Diên khánh vĩnh tự Kinh văn tuy lộc Cảnh quang phi hiếu Dương võ phù tộ Hưng nghiệp thùy thống Hồng sư nguyên tự Đốc dự riễu tự Yến mưu hồng nghiệp Khoát dại khoan dung Lập cực vĩnh điển Tuy phúc trí đức Quảng huệ phù vận Tư trị hồng ơn Tích hậu vĩnh đức Đại công thịnh nghiệp Chế trị phục viễn Lập kinh trần kỷ Cương minh hung đoán Trương thiện triệu uy Trấn quốc an cương Quan minh tấn triết Cung ý quả quyết Sáng pháp khai cờ Cảnh thái vĩnh quang Hàm trương tái vật Mậu công hoành hiến Pháp thiên hưng vận Quách hoành khôi cương Tề thánh thông minh Vũ anh quả tịch Trương nghĩa bình tàn Thánh nhân duệ trí Cương kiên trung chính Anh hung hào kiệt Kiến nghĩa tạo mưu Khai tiên xương hậu Thái thủy phu tiên Sùng cơ triệu khánh Thần võ thánh văn Hùng tài vĩ lược Lập nghiệp phối thiên Cao công đức hậu Triệu mưu khải vận Sáng nghiệp lập bản Thái Vương (明康仁智武貞雄略顯德豐功啟業宏謨濟世澤民建謀匡辟肇祥裕國廣運洪謨裕後衍福靖難佐辟垂休篤弼開國剛毅輔國贊治毅威耀武延慶永緒經文綏祿耿光丕憲揚武扶祚興業垂統鴻休綿緒篤裕衍嗣燕謀鴻業豁達寬容立極永興綏福至德廣惠扶運資治洪恩積厚永德大功盛業制治服遠立經陳紀剛明雄斷彰善耀威鎮國安疆光明睿智恭懿果決創法開基景泰永光含章載物茂功宏憲法天興運廓宏恢疆齊聖聰武英果避遠仗義平殘聖神睿智剛健中正英雄豪傑建義造謀開先昌後太始孚先崇基肇慶神武聖文雄才偉略立業配天功高德厚兆謀啟運創業立本太王) gọi tắt là Minh Khang Thái Vương (明康太王). Hiệu là Trung Huân (忠勳).

Năm 1594, Hoàng đế Lê Thế Tông sai Nguyễn Hoàng mang kim sách gia phong Minh Khang Thái Vương làm Minh Khang Nhân Trí Vũ Trinh Hùng Lược Thái Vương.

6. Tham khảo

– Internet

vi.wikipedia.org

– Ấn phẩm

You may also like...

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *