Nguyễn Quyện (1511 – 1593)

1. Thông tin

– Tên gọi: Nguyễn Quyện (阮倦) hay Nguyễn Quyển

Thụy hiệu: Triệu Vương.

Tước vị: Thường Quận Công, Thạch Quốc Công.

– Sinh ngày 28/8/1511 (Tân Mùi) tại làng Tảo Dương, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, Hà Đông, Kinh Bắc, Đại Việt (nay là xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, Tp. Hà Nội, Việt Nam).

Mất ngày 20/7/1593 (tức ngày 4/11/Quý Tỵ nhuận) (81 tuổi) tại Hải Phòng, Đại Việt (nay là Hải Phòng, Việt Nam)

– Giới tính: Nam

– Quốc tịch: Đại Việt

Dân tộc: Kinh

– Là chính trị gia thời Mạc trong lịch sử Việt Nam.

2. Hôn nhân và gia đình

a) Thân thế

– Ông nộiNguyễn Doãn Toạibà nộiNguyễn Thị Hiền

– Ông ngoại là Nguyễn Bá Ký

– Bố Nguyễn Đạm

b) Hôn nhân và con cái

– Quan hệ gia đình với 2 vợ là Lê Thị và Mạc Ngọc Tỷ

– Có 12 người con: (10 con trai và 2 con gái)

Con trai: Nguyễn Tín, Nguyễn Trù, Nguyễn Bảo Trung, Nguyễn Nghĩa Trạch.

Con gái: Nguyễn Như Nguyệt, Nguyễn Thị Niên.

3. Cuộc đời và sự nghiệp

Con thứ 2 trong gia đình có ? anh chị em (Nguyễn Thị Ngọc Cẩm, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn).

Học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Làm tướng của nhà Mạc. Cùng các danh tướng Mạc Kính Điển, Mạc Ngọc Liễn quần nhau với những tướng giỏi của nhà Lê là Trịnh Kiểm và Trịnh Tùng trong nhiều năm.

Lấy con gái của Lê Bá Ly làm vợ.

Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly mâu thuẫn với cha con sủng thần Phạm Quỳnh – Phạm Dao và các quan Nguyễn Văn Thái, Đặng Văn Trị,… từ ngấm ngầm đến chia rẽ, đối địch. Cha là Thượng thư Nguyễn Thiến đứng về phía Thái tể Bá Ly. Khiêm vương Mạc Kính Điển phụ chính đại thần đang lo đánh dẹp phe phái mạnh của Mạc Chính Trung – Phạm Tử Nghi và có ơn với nhà Phạm Quỳnh, nên chưa kịp đứng ra dàn xếp chính sự. Vua Mạc Tuyên Tông còn trẻ lại tin lời xúc xiểm của sủng thần Phạm Quỳnh. Cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao đã bất ngờ đưa quân cấm vệ đến vây dinh Thái tể Lê Bá Ly và Thượng thư Nguyễn Thiến. Hai người trốn thoát ra được đã đem binh Sơn Tây và Kinh Bắc về đánh lại quân của Phạm Quỳnh và Phạm Dao. Vua Mạc Tuyên Tông trốn ra ngoài thành và xuôi thuyền bí mật về Dương Kinh để gặp Mạc Kính Điển. Trong tình thế cấp bách không kịp hỏi kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mà vội cùng cha và Lê Bá Ly dẫn gia quyến cùng nhiều người đang làm tướng triều Mạc như Lê Khắc Thận, Nguyễn Miễn… Mỗi người đem hơn trăm quân bản bộ suốt đêm trốn vào ải Thanh Hoa, đầu hàng triều đình Lê Trịnh, được vua Lê vui mừng, đãi ngộ, giao trọng trách tuyển chọn nhân tài cho triều đình.

Tháng 3/1551, Trịnh Kiểm đã đem một vạn quân, cử ông cùng Lê Bá Ly, Lê Khắc Thận làm tiên phong, phối hợp chặt chẽ với Vũ Văn Mật ở Tuyên Quang cùng mang quân đánh kinh thành Thăng Long. Mạc Tuyên Tông tránh sang Kim Thành, Hải Dương để Mạc Kính Điển, Nguyễn Kính ở lại chống giữ. Trịnh Kiểm không đánh chiếm được kinh thành phải kéo quân về Thanh Hoa.

Năm 1557, Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến cùng mất. Vua Mạc Tuyên Tông biết ông là tướng tài, luôn lập được chiến công nên lấy làm lo ngại phải hỏi kế của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình đã xin vua Mạc mang theo một trăm tráng sĩ sai đi phục sẵn ở bờ bắc và gửi thư mời ông và em trai là Nguyễn Miễn sang bên thuyền để cùng uống rượu, nói chuyện tâm tình. Đang lúc bất bình với Trịnh Kiểm nên 2 anh em nhận lời gặp mặt. Tháng 8 nể lời thầy học, hai anh em nghe theo lời Nguyễn Bỉnh Khiêm, bèn rủ nhau trốn về với nhà Mạc. Sự trở về của hai anh em Nguyễn Quyện làm Mạc Tuyên Tông và Khiêm Vương Mạc Kính Điển rất vui mừng. Mạc Kính Điển gả con gái Ngọc Tỷ cho và phong tước Văn Phái hầu. Người em trai cũng được trọng vọng cùng con hai ông cũng được phong chức tước cao.

Đương thời đã có câu: Quyện tồn Mạc tại /Quyện bại Mạc vong (Nguyễn Quyện còn thì nhà Mạc còn/ Nguyễn Quyện bại thì nhà Mạc mất).

Tháng 9 Thái sư nhà Lê Trịnh Kiểm mang quân đánh huyện Giao Thuỷ ở mạn dưới Sơn Nam. Trịnh Kiểm tự mình chỉ huy bộ binh, sai Vũ Lăng hầu Phạm Đức Kỳ làm Tiền Thuỷ đội, tung quân đánh lớn. Mạc Kính Điển không chút nghi ngờ Nguyễn Quyện, sai ngay ông ra chống giữ ở sông Giao Thuỷ. Nguyễn Quyện và Phạm Đức Kỳ đánh nhau to. Kỳ rướn mình nhảy sang mui thuyền của Nguyễn Quyện trước và hạ gục ngay người vệ sĩ của Quyện. Ông cầm gươm chém tới, Kỳ không đỡ kịp nên nhảy xuống sông lặn đi. Ông nhảy sang thuyền của Kỳ, chém được đầu người vệ sĩ và nhanh ý xóc mũi kiếm vào đầu địch thủ, dơ cao lên, hô lớn: Đầu Vũ Lăng hầu đây, lũ chúng mày địch sao nổi ta!

Quân Lê Trịnh nghe nói thế, tưởng chủ tướng bị giết nên nao núng, tan vỡ. Quân Mạc thừa thắng đuổi đánh. Trịnh Kiểm phải vội rút quân. Mạc Kính Điển sai tướng đem quân chặn lối về. Trận này quân Lê tổn hại quá nửa, chiến tướng bị giết đến vài chục viên, thuyền bè, khí giới phải vứt bỏ rất nhiều, Trịnh Kiểm rút về Thanh Hoa. Nguyễn Quyện được phong là Thạch quận công.

Năm 1561, Mạc Phúc Nguyên lâm bệnh chết, con là Mạc Mậu Hợp mới hai tuổi lên thay. Phụ chính Mạc Kính Điển phong Nguyễn Quyện là Chưởng Phù Nam vệ.

Con gái trưởng là Nguyễn Như Nguyệt trở thành vợ của Mạc Mậu Hợp.

Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, các con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh quyền đánh nhau. Mạc Kính Điển nhân thời cơ bèn khởi 10 vạn quân, 700 chiếc chiến thuyền chia làm năm đội vào đánh Nam triều. Mạc Đôn Nhượng cùng tướng Bắc đạo Mạc Đình Khoa trấn giữ cửa biển Thần Phù, tướng Nam đạo Nguyễn Quyện làm đội thứ 2, tướng Tây đạo Mạc Ngọc Liễn làm đội thứ 3, tướng Đông đạo Hoa Quận công và Kỳ Quận công làm đội thứ 4; đích thân Mạc Kính Điển đốc suất đại quân trung dinh làm đội thứ 5. Trịnh Cối liệu thế không chống nổi bèn đem quân về hàng nhà Mạc. Quân nhà Mạc thừa thắng tràn lên vây đánh An Trường (thuộc huyện Thuỷ Nguyên) là nơi vua nhà Lê đóng. Tuy nhiên, Trịnh Tùng thay thế Trịnh Kiểm cũng là tướng có tài, quân Mạc không đánh chiếm được Thanh Hoá, chỉ cướp được nhiều của cải và dân mang về bắc. Một số tướng lĩnh nhà Lê cũng quay sang hàng Mạc.

Tháng 7/1571, Nguyễn Quyện theo Mạc Kính Điển đốc suất quân lính vào đánh các huyện ở Nghệ An. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, dân Nghệ An sợ uy quân Mạc từ lâu, địa thế lại xa cách, quân Lê Trịnh không thể cứu giúp được, phần nhiều đầu hàng nhà Mạc. Vì thế, từ sông Cả vào Nam đều là đất theo Mạc. Tướng Lê là Nguyễn Bá Quýnh nghe tin quân Mạc đến kinh hãi bỏ chạy. Nguyễn Quyện hợp binh với đạo quân của Hoàng quận công Mạc Đăng Lượng. Tuy nhiên, quân Mạc đi đánh xa, không được tiếp tế kịp thời. Tháng 9 Trịnh Tùng chia quân cho hai quận công Trịnh Mô và Phan Công Tích đi cứu Nghệ An. Quân Mạc rút về.

Tháng 8/1572, do chiến sự bên Mạc có nhiều thuận lợi, Thái phó Vi quận công Lê Khắc Thận (con của Lê Bá Ly, trước từng theo cha sang hàng Lê với Nguyễn Quyện) đã bỏ lại vợ con, vượt luỹ về hàng nhà Mạc.

Tháng 6/1574, ông lại đem quân đánh Nghệ An. Quân Lê đánh nhau với quân Mạc nhiều lần bất lợi, thấy quân lính nhiều người sợ bỏ trốn, bèn làm vòng sắt khoá chân quân lính vào thuyền. Quân Mạc đuổi đến, quân Lê cũng không chịu giao chiến. Nguyễn Quyện đánh bại quân Lê, đuổi theo bắt sống được tướng Hoành quận công Thái Bá Chiên mang về Thăng Long xử tử.

Tháng 8/1575, Mạc Kính Điển mang quân vào đánh Thanh Hoá, sai Nguyễn Quyện cầm quân đánh Nghệ An. Trịnh Tùng điều quân đánh chặn, cầm chân được quân của Kính Điển ở huyện Yên Định. Trịnh Tùng cử các tướng Lại Thế Khanh, Phan Công Tích, Trịnh Mô đi cứu Nghệ An. Sáng ngày hôm sau Chiến sự giao tranh tại Lèn Hai Vai Diễn Châu, Nguyễn Quyện nhìn Lèn Hai Vai là núi “Lưỡng Khương” chỉ có Hai vai mà Không có đầu biết là sẽ thắng, đã dùng kỳ binh mai phục, đánh thắng giết chết Phan Công Tích trên lưng ngựa.

Năm 1576 Mạc Kính Điển một lần nữa mang quân vào đánh Thanh Hoá và lại sai Nguyễn Quyện cầm quân đánh Nghệ An. Nguyễn Quyện đụng với Tấn quận công Trịnh Mô, đánh nhau vài tháng. Sau Trịnh Mô nhiều lần đánh không được, trốn về Thanh Hoa, đến huyện Ngọc Sơn. Nguyễn Quyện nói: Trịnh Mô đánh thua chạy về, rút quân không có hiệu lệnh, ta thế nào cũng bắt được nó. Rồi ông tự đốc quân đuổi tới, dùng kế nội gián phá được quân của Tấn quận công ở xứ Bông Đồn, Độc Hiệu, huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia, Thanh Hóa), khiến voi của Trịnh Mô bị sa lầy, bắt được Trịnh Mô ở giữa đường đưa về Thăng Long.

Nhà Lê ghi nhận trong Đại Việt Sử ký Toàn thư: Từ đấy, oai thanh của Nguyễn Quyện ngày một lừng lẫy, trở thành viên danh tướng của họ Mạc. Các tướng hùng, tôi giỏi cả miền Giang Đông đều cho là không bằng Nguyễn Quyện.

Ngày 16/8/1570 Mạc Kinh Điển đốc xuất các Tướng Tá đem hơn 10 vạn quân đánh Thanh Hóa. Hoàng Quận công (Theo gia phả họ Hoàng Trần cho là Mạc Đăng Lượng) làm đội thứ nhất Tiên phong. Nam đạo Thạch quận công Nguyễn Quyện làm đội thứ hai.

Tháng 8/1577, ông theo Mạc Kính Điển đi đánh Thanh Hoá nhưng không giành được thắng lợi. Quân Mạc tổn thất phải rút về.

Năm 1580, Mạc Kính Điển lâm bệnh không ra trận được. Tháng 7 Kính Điển sai Nguyễn Quyện cùng Mạc Ngọc Liễn đem quân vào đánh Thanh Hoa, cướp lấy tiền của, súc vật của dân cư các huyện dọc sông rồi rút về. Tháng 10  Mạc Kính Điển mất. Mạc Đôn Nhượng được thay làm phụ chính.

Năm 1581 (Tân Tỵ) theo Mạc Đôn Nhượng chia làm hai đạo đánh Thanh Hoá. Đi đường biển đổ bộ lên Quảng Xương, tâp kết ở núi Đường Nang nhưng bị Ngô Cảnh Hựu và Hà Thọ Lộc chốt giữ nhưng nơi hiểm yếu và đánh vào doanh trại nên bị bại trận phải rút trở về.

Năm 1583 (Quý Mùi) Trịnh Tùng thấy thế mình đã mạnh bèn cử binh mã ra đánh Sơn Nam, đổi thế thủ thành thế công. Lúc này Mạc Đôn Nhượng làm phụ chính đại thần không có tài như Mạc Kính Điển, vua Mạc Mậu Hợp hèn kém, ít quan tâm chính sự và không nghe lời trung thần. Nguyễn Quyện và Mạc Ngọc Liễn thì đều đã già yếu. Thế Nhà Mạc ngày một suy yếu.

Tháng 10/1584 (Bính Thân) Nhà Mạc phong Giáp Trưng làm Sách Quốc Công, Nguyễn Quyện được phong tước Thường quốc công.

Tháng 6/1586, ông được phong làm Nam quân Tả đô đốc, cùng Mạc Ngọc Liễn được phong làm Thái bảo. Hoàng Quận Công Mạc Đăng Lượng phong phủ tả Đô đốc.

Tháng 11/1587 nhận lệnh cùng Đại tướng Tây đạo Mạc Ngọc Liễn từ Chương Đức ra huyện Mỹ Lương chống giữ quân Lê đánh từ phía tây nam. Chia làm hai đạo, Mạc Ngọc Liễn đem quân ra Xuân Mai Mỹ Đức; Đại tướng Nam đạo ra Chương Đức vượt sông Gio Lễ (đoạn sông đáy chảy qua xã Gio Lễ ngày nay), bố trí mai phục bên núi, chờ đại quân của Trịnh Tùng đi qua, đánh vào hậu quân để cướp lương. Đội quân vận lương do Ngô Cảnh Hựu chỉ huy, lại có thêm sự hậu thuẫn của quân Hoàng Đình Ái nên yếu thế bị thua, đành chạy về Thăng Long.

Liên tiếp trong các năm sau, quân Lê ra đánh, quân Mạc thường bị thua, nhưng khi quân Mạc chạy về kinh, phía quân Lê cũng chưa đủ mạnh để truy kích ra bắc, nên rút về Thanh Hoá.

Tháng 12/1591 (Tân Mão) Trịnh Tùng huy động đại quân bắc tiến, chia làm 5 đạo để đánh ra Thăng Long. Nhà Mạc cũng dồn hết quân lính khoảng 10 vạn người ra mặt trận, hội ở Quốc Oai để quyết chiến. Mạc Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn đốc suất các tướng sĩ binh mã Tây đạo; Nguyễn Quyện đốc suất tướng sĩ binh mã Nam đạo, Mạc Mậu Hợp đích thân đốc suất binh mã của chính dinh.

Ngày 27/12 đến địa phận xã Phấn Thượng, hai bên đối trận với nhau. Quân Lê – Trịnh mạnh mẽ tiến lên đánh bại quân Mạc, thừa thắng đuổi dài đến Giang Cao, chém được hơn 1 vạn quân Mạc. Mạc Mậu Hợp vội xuống thuyền vượt sông mà chạy. Duy có Nguyễn Quyện lánh xa nên được an toàn, chưa đụng quân Lê. Mạc Mậu Hợp trốn về Thăng Long, chỉnh đốn lại binh mã. Sai Mạc Ngọc Liễn đem quân bản đạo cố thủ từ cửa Bảo Khánh về phía tây đến phường Nhật Chiêu; Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên đem quân bốn vệ giữ cửa Cầu Dừa, qua cửa Cầu Muống đến thẳng cửa Cầu Dền, chia dinh thứ, ngày đêm đóng cửa cố thủ trong thành Đại La để chống giữ; Nguyễn Quyện đem quân giữ từ Mạc Xá trở về đông, ứng cứu quân các đạo. Quân hai đạo Đông và Bắc đều thuộc quyền của Nguyễn Quyện. Mạc Mậu Hợp tự tay đốc suất thuỷ quân, dàn hơn 100 chiếc thuyền giữ sông Nhị Hà để làm thanh viện. Nguyễn Quyện đem quân đến dinh, đặt quân phục ở ngoài cửa Cầu Dền để đợi, dàn súng lớn Bách Tử và các thứ hoả khí để phòng bị.

Ngày 3/1/1592 (Nhâm Thìn) Thiết chế Trịnh Tùng mở cuộc tấn công đại quy mô vào sào huyệt của nhà Mạc tại Thừa tuyên Sơn Nam. Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên không chống nổi quân Lê, tan vỡ tháo chạy; Mạc Ngọc Liễn cũng bỏ trốn. Quân Lê thừa thắng đuổi tràn đến tận sông, phóng lửa đốt cung điện và nhà cửa trong thành. Trịnh Tùng thúc voi ngựa và quân lính đánh phá cửa Cầu Dền. Quân mai phục của Nguyễn Quyện giữ từ Mạc Xá đến phía đông kinh thành, chưa kịp nổi dậy, bị chết hết ở ngoài cửa Cầu Dền. Nguyễn Quyện định liều mạng chạy trốn, nhưng tiến, lui đều không còn đường nào, trong ngoài đều là quân Lê, mà cửa luỹ lại bị lấp. Con ông là Nguyễn Bảo Trung, Nguyễn Nghĩa Trạch và thủ hạ, tinh binh cố sức đánh, đều chết tại trận.

Ngày 6/1 Trịnh Tùng tiến đến gò tập bắn (Giảng Võ, Hà Nội) bày trận, chia đường cho các tướng tiến đánh. Trần Bách Niên và Bùi Văn Khuê thua trận bỏ chạy, Nguyễn Quyện đặt phục binh không kịp trỗi dậy nên bị bắt; Nguyễn Quyện trí cùng lực kiệt, bị thương, chạy về bản dinh, bị quân Lê – Trịnh bắt sống giải về Lam Kinh, Thanh Hóa. Trịnh Tùng cởi trói cho ông, đãi theo lễ tân khách nói tới ân nghĩa thu nạp của Trịnh Kiểm trước kia, không lấy oán báo oán mà lấy ân báo ân (vì có cha là Nguyễn Thiến từng là trọng thần vương triều Lê Trịnh, và chị là phu nhân của Trịnh Kiểm). Ông bèn nghĩ ra kế hoãn binh cho nhà Mạc, nói với Trịnh Tùng rằng:

– Muốn hạ Thăng Long, trước hết phải phá hết La Thành.

Trịnh Tùng hạ lệnh cho các quân san phẳng luỹ đất đắp thành Đại La. Ông muốn nhân thời gian quân Lê mải đi phá luỹ, quân Mạc sẽ có cơ hội tổ chức lại. Trịnh Tùng tuy thắng trận nhưng liệu sức chưa chiếm hẳn được Thăng Long nên cũng tạm rút quân. Song Mạc Mậu Hợp khi trở về kinh thành lại hưởng lạc như cũ, không lo lắng việc phòng chống quân Nam và tổ chức phản công.

Tháng 8 Bùi Văn Khuê (con rể của ông) thấy vua ăn chơi lại gây chuyện, bèn dẫn quân bản bộ về hàng nhà Lê. Sau đó liên tiếp 10 tướng Mạc sang hàng Lê. Mạc Ngọc Liễn một mình chống giữ nhưng bị cô thế, bị bại trận ở Tam Đảo. Mạc Mậu Hợp đại bại bỏ chạy thoát sau ẩn cư trong chùa ở xứ Kinh Bắc.

Năm 1593 (Quý Tỵ) Nguyễn Quyện bị giam trong ngục. Các con ông là Nhuệ quận công Nguyễn Tín, Thọ Nham hầu Nguyễn Trù và con của em trai ông là Phù Hưng hầu Nguyễn Miễn có Đô Mỹ, Văn Bảng, Nam Dương, An Nghĩa, Nhân Trí thấy vua Mạc bị bắt, bèn chịu khuất quy thuận. Tuy nhiên sau đó ông cùng các con, cháu vẫn muốn phò nhà Mạc nên mưu phản, việc bị phát giác. Ngày 20/7 (4/11 nhuận) Trịnh Tùng xét hỏi. Ông mặt đỏ bừng, phục xuống và tự than: Tôi vì lẽ chúa Trịnh lộng hành, coi thường vua Lê, đối xử với mọi người không ra gì và nể lời khuyên của thầy học nên về lại với nhà Mạc, được nhà Mạc tri ân mà đối đãi rất nồng hậu cho nên tôi phải lấy ân trả ân. Nay là bại tướng, không còn kế sách gì nữa mà trông nom đất nước. Trời đã bó nhà Mạc thì người anh hùng cũng khó thi sức. Trịnh Tùng khen ngợi câu nói, không dụ hàng được, Trịnh Tùng đã sát hại ông cùng Nguyễn Tín, Đô Mỹ, Văn Bảng, Nhân Trí. Con ông là Thọ Nham cùng 2 người cháu là Nam Dương, An Nghĩa trốn thoát đi theo Mạc Kính Cung cát cứ trên Cao Bằng. Trịnh Tùng ra lệnh “tru di diệt tộc” (giết cả họ). Đồ thờ bị đốt phá. Bia mộ bị cạo xóa. Làng Cảo Dương có họ Nguyễn Đình bị yểm long mạch

4. Tham khảo

– Internet

vi.wikipedia.org

tapchisonghuong.com.vn

zingnews.vn

– Ấn phẩm

You may also like...

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *