Trịnh Khả (1391 – 1451)
1. Thông tin
– Tên gọi: Trịnh Khả (鄭可)
Tước hiệu: Á Quận quân; Thụy hiệu: Liệt Quốc công
– Sinh năm 1391 (Tân Mùi) tại làng Giang Đông, làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh, tỉnh Thanh Hóa, Đại Việt (nay là làng Sóc Sơn, xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam)
Lại có thông tin là Sinh năm 1399 (Kỷ Mão)
Mất ngày 26/7/1451 (60 tuổi) tại Đông Kinh, Đại Việt (nay là Tp. Hà Nội, Việt Nam)
– Giới tính: Nam
– Quốc tịch: Đại Việt
Dân tộc: Kinh
– Là chính trị gia thời nhà Lê trong lịch sử Việt Nam.
2. Hôn nhân và gia đình
a) Thân thế
– Bố là Trịnh Quyện và mẹ là Trịnh Xuân Dung
b) Hôn nhân và con cái
– Quan hệ gia đình cùng 2 vợ là Ngô Thị Ngọc Phúc và Bùi Thị Diệp
– Có 22 người con: (13 con trai và 9 con gái)
Con trai: Trịnh Bá Quát, Trịnh Công Lộ, Trịnh Công Đán, Trịnh Công Tá, Trịnh Công Khản, Trịnh Công Phú, Trịnh Công Ngô, Trịnh Công Phụ, Trịnh Quý Thuật, Trịnh Quý Tuân, Trịnh Quý Địch, Trịnh Công Diễn, Trịnh Công Hữu.
c) Hậu duệ
– Cháu nội: Trịnh Công Quyền, Trịnh Công Hành, Trịnh Công Cán, Trịnh Thị Thanh, Trịnh Thị Giang
3. Con người và tính cách
Sách Kiến văn tiểu lục: Trịnh Khả xa giá từ lúc ở Lam Sơn, tài trí hơn đời, ứng biến không cùng tận, phá Vương Thông, đuổi Mộc Thạnh, giết Kha Lại nước Ai Lao, bắt Bí Cai chúa Chiêm Thành, danh vọng lừng lẫy một thời, có 10 người con, đều giữ chức tướng văn, tướng võ, danh vọng lừng lẫy một thời đấy là việc hiếm có xưa nay.
Wikipedia chép: Trịnh Khả cùng Lê Thụ là bậc thái tể đứng đầu triều đình. Ông luôn là người thẳng thắn, giữ phép công và chức phận, lấy trách nhiệm với việc sửa lỗi lầm cho vua nhỏ. Trịnh Khả dùng pháp luật rất nghiêm khắc, đã xử án thì không thể xin nới tay.
Sách Thanh Hóa tỉnh, Vĩnh Lộc huyện chí của Lưu Công Đạo miêu tả: Nhìn dung mạo khôi ngô, mày rồng, trán hổ, tai dày dính thịt, mắt nhỏ ẩn thần.
Sách Lịch triều Hiến chương loại chí viết: Bậc tể phụ đứng đầu, có tính thủ tín, thẳng thắn giữ phép công hết chức phận, lấy việc sửa lỗi cho vua, nhận lời chỉ bảo làm trách nhiệm của mình, biết điều gì cũng nói, lại giữ phép rất nghiêm, không ai có thể làm khác được. Thời ấy, các quan ai cũng sợ!
4. Cuộc đời và sự nghiệp
Con thứ 4 trong gia đình 4 anh em (1, 2, 3 và Trịnh Khả)
Năm 1407 (Đinh Hợi) khi 16 tuổi, Trịnh Khả dắt trâu đi cày về ngồi nghỉ ở cổng chùa Kiều Sơn (chùa Vĩnh Nghiêm, xã Vĩnh Hòa), có viên tướng nhà Minh tên là Trương Phụ từ thành Tây Đô (Thanh Hoá) đi tới, trông thấy dung mạo Trịnh Khả thì ưa, lập tức hỏi
– Con là ai ngồi đây, có công cán gì?
Trịnh Khả trả lời:
– Tôi là người nông canh nhàn hạ câu cá, ngồi đợi quạt gió cỏ nam thơm, đa tạ quan nhân đã để mắt tới kẻ hèn mọn. Có quan hệ gì đâu?
Trương Phụ vừa nghe nói thất sắc đáp lại rằng:
– Ngươi có tướng mạo phi thường, nhưng lời nói lại càng phi thường hơn – Rồi lại nói – Câu cá phải có bạn cùng câu, ấy cỏ Nam thơm phải có người thưởng ngoạn cùng, ngươi cũng không phải ngoại lệ, kẻ tiền bối của ta sau này ta sẽ bắt được ngươi.
Tức thì Khả đứng dậy cười và nói:
– Có việc nhà bức bách, vả lại phải xin cha mẹ mới đi được.
Rồi Khả về nói với mẹ:
– Con là người nước Nam, sao lại yên việc với bọn giặc Ngô
Bèn trốn đến gia đình người cô ở Duyên Phúc.
Ngày 14/9 giặc Minh kéo đến nhà không thấy liền bắt người cha, giết đi rồi ném xác xuống sông Mã.
Ngày 16/9 Trịnh Khả biết chuyện, men theo bờ sông tìm cha. Đến Hà Uyên (vực Tôm) thì thấy 2 người đang vớt xác, Khả lại gần bàng hoàng ôm xác cha lên bờ tìm nơi cao an táng. Ông lão tóc bạc chắp tay lại mà rằng:
– Cát địa ở trước mặt ông đó sao không mang đến táng ở đó, đất bằng huyệt khởi, chỉ có lòng đất mới giữ được lâu. Ba năm sau sẽ phát phúc.
Xong việc, Khả trở lại Diên Phúc chịu tang cha, lòng căm thù giặc dâng cao. Nghe tin Lê Lợi đang lập trại ở Lam Sơn, ngầm nuôi binh mã, Khả liền vác gươm tới xin theo.
Có bản chép Trương Phụ dẫn về nuôi làm nô lệ. Ít lâu sau, viên tướng này xem tướng Trịnh Khả, nói rằng:
– Đứa bé này hình rồng mắt hổ, khỏe nhất ba quân, ngày sau tất cầm cờ mao tiết.
Chợt lại bảo:
– Ngày sau đuổi chúng ta đi tất là mày. Phải giết ngay đi kẻo lo ngại về sau.
Trịnh Khả sợ hãi bỏ trốn, qua sông Mã, ẩn náu ở nhà bà cô thuộc xã Diên Phúc. Quân Minh đuổi theo không kịp, bèn bắt giam cha ông là Trịnh Quyện để buộc ông phải đến, nhưng Trịnh Khả cũng không chịu đến. Quân Minh bèn giết Trịnh Quyện bỏ xác xuống sông. Trịnh Khả biết tin, nhân đêm lẻn về vớt xác cha lên chôn cất. Căm thù quân Minh, liền tìm đến Lam Sơn theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa
Năm 1416 (Bính Thân) một trong 19 người tham gia Hội thề Lũng Nhai (làng Mé (nay là thôn Xuân Thành, xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam), ước hẹn cùng nhau chung sức đánh quân Minh cứu nước. Cùng nhóm Lê Văn Linh làm tướng võ tướng văn luôn mang gươm theo hầu Lê Lợi, sau đó được thăng làm Phó chỉ huy lực lượng quân Thiết Đột (thứ thủ đội Thiết đột).
Có thông tin cho rằng Hội thề Lũng Nhai tại xã Phúc Thịnh và Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam
Ngày 7/2/1418 (2/1/Mậu Tuất) Lê Lợi tổ chức lễ tế cờ, bố cáo với thiên hạ bắt đầu cuộc khởi nghĩa chống quân Minh đô hộ. Nhiều trận đánh với quân Minh diễn ra nhất là trận Lạc Thủy chiến đấu ác liệt. Quân Minh cũng không kém, truy kích Lê Lợi không được, sai người đến Phật Hoàng đào mộ Lê Khoáng là cha của Lê Lợi, lấy hài cốt mang về. Trịnh Khả đến trước mặt Lê Lợi xin được đi lấy thi hài Lê Khoáng về, Lê Lợi đồng ý, ông cùng Bùi Bị đội cỏ, lẻn bơi đến bến Dao Xá Thượng, thuyền quân Minh đang ngủ say, Trịnh Khả lấy trộm tiểu đựng xương cốt mang về cho chủ tướng.
Quân Minh thức dậy, không thấy hài cốt, tức tốc kéo quân đánh Lam Sơn lần 2. Quân Lê Lợi không địch nổi đành phải rút lên núi Chí Linh. Lê Lợi muốn sự giúp sức của Ai Lao nên sẵn Trịnh Khả thạo tiếng, liền sai mang thư sang nhờ vua Ai Lao (Lào) giúp quân, lương, khí giới và voi chiến. Vua Ai Lao nhận lời, nhờ đó mà họp lực đánh nhau với quân Minh.
Tháng 10/1424 (Giáp Thìn) Trịnh Khả cùng một số tướng Lĩnh cầm quân tham gia đánh chiếm vào Nghệ An. Trong mấy mươi trận chạm trán với quân Minh, kinh lược các lộ Nghệ, Diễn, ông đều xung phong hãm trận, mấy lần nổi tiếng lập công to, và được phong đến Thái giám.
Tháng 9/1426 (Bính Ngọ) Lê Lợi vây thành Nghệ An, chia các tướng ra nhiều nhóm, tuần du các nơi. Ông cùng các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Đỗ Bí đem 2000 quân ra Thiên Quan đi tuần ở 5 lộ là Quảng Oai, Gia Hưng, Tam Đái, Lâm Thao, Tuyên Quang. Vừa thu nhập đất, vừa chiêu dụ binh để cắt đường tiếp viện của quân Minh từ Vân Nam xuống đất Việt. Trận Ninh Kiều khi ông đánh Trần Trí tơi bời, phải tháo chạy về Đông Quan. Ninh Kiều trở thành căn cứ lợi hại của nghĩa quân Lam Sơn
Tháng 10 tiếp tục là các trận Nhâm Mục, Xa Lộc giành được toàn thắng.
Sau đó, ông đem theo một cánh quân lẻ, tiến thẳng đến thành Đông Đô (thành Đông Quan). Tướng quân Minh thấy ông đến từ xa, bèn đem quân ra phòng thủ ở Ninh Kiều; nhưng ông đã nhanh chóng đánh bại chúng. Đóng ở Tây Ninh Kiều. Đô ty Vân Nam là Vương An Lão, bèn đem một vạn quân đến cứu viện; nhưng Trịnh Khả cùng với Phạm Văn Xảo dẫn quân đánh bại chúng ở cầu Xa Lộc. Chợt nghe tin Tổng binh nhà Minh là Vương Thông đem 5 vạn quân theo đường Quảng Tây kéo sang đã tới Đông Đô; còn một cánh quân nữa ở Vân Nam có một vạn quân, đã xuôi theo đường sông mà xuống. Trịnh Khả sợ hai cánh quân này hợp lại, bèn vội từ Ninh Kiều đi gấp lên đón cánh quân từ Vân Nam này ở cầu Xa Lộc, phá tan chúng, bắt chém hàng nghìn quân Minh. Sau đó Lý Triện, Đinh Lễ lại đại phá quân Minh ở trận Tốt Động – Chúc Động. Nhờ hai trận thắng này, thanh thế quân Lam Sơn lừng lẫy, lúc bây giờ tên tuổi của ông cùng với Phạm Văn Xảo, Đinh Lễ, Lý Triện vang lừng cả nước. Lê Lợi nghe tin thắng trận, lập tức ra Bắc, sai ông đánh thành Tam Giang, rồi phong ông làm Thiếu úy.
Năm 1427 (10/1/Đinh Mùi) Lê Lợi đóng ở phía Bắc sông Lô, cùng lúc ấy nghĩa quân Lam Sơn đang bao vây Đông Đô, với Trịnh Khả trấn giữ cửa phía Đông thành Đông Đô. Vương Thông sợ hãi cấp báo với nhà Minh. Nhà Minh sai Liễu Thăng, Mộc Thạch chia đường sang cứu viện. Viện binh của Liễu Thăng cùng với Mộc Thạnh tiến sang. Ông cùng Phạm Văn Xảo mang quân chống giữ ải Lê Hoa, nhưng nhận lệnh không được giao chiến với viên tướng lão luyện Mộc Thạnh này. Không lâu sau, vì nghe tin Liễu Thăng tử trận, lão tướng Mộc Thạnh cũng bỏ chạy về Tàu. Ông cùng Phạm Văn Xảo tổ chức tung quân đuổi đánh ở Đan Xá và Lãnh Châu, chém hơn 1 vạn quân Minh, bắt sống 1000 tù binh. Sau đó, Vương Thông lại bị vây trong thành Đông Quan.
Tháng 12 Vương Thông phải xin giảng hòa rút về nước. Danh tiếng tên tuổi của Trịnh Khả được nâng cao hơn bao giờ hết.
Năm 1428 (Mậu Thân, Thuận Thiên thứ 1) Lê Lợi lên ngôi, phong làm Kim tử vinh Lộc đại phu Tả lân hổ Vệ tướng quân, được ban túi Kim ngưu và Ngân phù, thượng khinh xa đô úy. Ban quốc tính mang họ vua là Lê Khả.
Năm 1429 (Kỷ Dậu, Thuận Thiên thứ 2) khi khắc biển công thần, được phong là Liệt (Huyện) hầu, coi giữ trong cung điện và giữ chức Đô thái giám 4 đạo (Nhập nội thái úy), coi quản mọi việc trong ngoài, kiêm án phủ sứ ở Tuyên Quang. Sau đó được gia phong chức Hành quân tổng quản xa kỵ quân sự đồng tổng quản, lĩnh các đội Thiết đột. Quốc vương Ai Lao là Côn Cô mới lên ngôi, có bầy tôi là Kha Lại làm phản. Côn Cô dâng voi cầu viện. Lê Thái Tổ sai mang quân sang giúp, diệt được Kha Lại, bình định Ai Lao.
Năm 1433 được thăng làm Bảo chính công thần gia Kim tử vinh lộc đại phu Lương Giang trấn, quán quân tướng quân, nhập nội thiếu bảo tham tri quân sự các vệ thuộc đạo Hải Tây và chức thái giám coi các việc trong ngoài, trụ quốc, ban kim ngân phù.
Năm 1434 (Giáp Dần, đời Lê Thái Tông) xin về hưu. Vua không chấp thuận, cho ra làm quan Tuyên uý đại sứ trấn Lạng Sơn, coi việc quân dân, lại làm Đồng tổng quản vệ Nam Sách hạ.
Năm 1437 (Đinh Tỵ) Lê Thái Tông bãi chức Đại tư đồ Lê Sát, gọi ông về làm chức tổng quản hành quân, coi việc quân vệ xa kỵ thuộc Tây đạo, quản lĩnh quân thiết đột thánh dực hậu đội, chức thái giám 6 quân ngự tiền; coi việc các đội thiết đột trung quân. Sau đó lại được phong thêm chức thiếu bảo, tham tri chính sự, rồi chức Thiếu uý.
Ngày 7/9/1442 (Nhâm Tuất) vua Thái Tông đi tuần phía đông về Côn Sơn, mắc bệnh nguy kịch, ông theo hầu hạ. Thái Tông mất, ông nhận cố mệnh, rước quan tài về kinh, lập thái tử Bang Cơ 2 tuổi lên ngôi, tức là Lê Nhân Tông. Được thăng chức Nhập nội tư mã.
Đại Việt thông sử chép: Một hôm, ông vừa từ buổi chầu trở ra thì thấy có đám đông tụ tập ở trước cổng dinh công đường, trong số ấy, có người cầm cái lưới săn. Ông vội bảo họ phải cất đi ngay, không được để Vua trông thấy, vì như thế sẽ kích thích tính ham mê săn bắn của Vua sau này.
Năm 1443, Nhân Tông còn nhỏ, thái hậu Nguyễn Thị Anh coi chính sự, ông được phong làm Nhập nội suy trung Tá lý Dương Vũ công thần, kiêm Lỗi Giang trấn phủ quân thượng tướng quân, cai quản việc quân các vệ Tây đạo, quận thượng hầu. Vua Chiêm Thành là Bí Cai 2 lần mang quân vây Hoá châu.
Năm 1446, nhận lệnh triều đình làm tiên phong đi đánh giặc, các tướng Lê Thụ, Lê Khắc Phục đi sau. Trịnh Khả phá được thành Thi Nại, dụ được cháu Bí Cai là Tả Quy Lai đến ăn thề, sai Tả Quy Lai dụ Bí Cai ra hàng. Sau đó lại lập Tả Quý Lai làm vua Chiêm. Trở về, ông được phong làm Suy trung tán trị dương vũ tĩnh nạn công thần, Thái Nguyên trấn phiêu kỵ thượng tướng quân, đặc tiến làm khai phủ nghi đồng tam ty, nhập nội thiếu uý, kiểm hiệu Bình chương quân quốc trọng sự, thượng trụ quốc, ban kim phù, Quốc thượng hầu.
Năm 1448 lại dâng sớ xin nghỉ nhưng Thái hậu Nguyễn Thị Anh không cho. Hộ giá vua Lê Nhân Tông về thăm Lam Kinh, chủ trì đợt tôn tạo mới khu Kinh đô tinh thần của triều đại nhà Lê, phụ trách việc rước tượng Pháp Vân ở Cổ Châu (Bắc Ninh) về chùa Báo Thiên (Thăng Long) làm lễ cầu đảo chống hạn
Viên quan giữ chức Chủ bạ của Nam Đạo là Đàm Thảo Lư ẩn lậu 4 quan tiền thuế, theo phép, chưa đến nỗi phải xử tử, nhưng vì hắn đã từng vu hãm Nguyễn Thiên Tích, cho nên, ông ghét lắm, quyết khép vào tội phải chết mới thôi. Viên quan giữ chức Chuyển vận Phó sứ của huyện Văn Bàn là Trương Tông Ký ăn hối lộ. Việc ấy bị phát giác. Các quan tả hữu xin tha, ông nói:
– Ăn trộm của một nhà còn không thể nào tha, huống chi là ăn trộm của một huyện.
Nói xong, giao xuống cho các quan tra xét. Rốt cuộc, viên Chuyển vận Phó sứ bị xử tội phải chết.
Tháng 9/1451 (ngày 26/7/Tân Mùi, Bảo Đại thứ 9) Thái hậu Nguyễn Thị Anh sai bắt giết ông cùng con là Trịnh Bá Quát do có người gièm pha rằng cha con Trịnh Khả kết đảng. Mọi người đều cho rằng ông bị oan.
5. Giải thưởng và vinh danh
Năm 1453 vua Nhân Tông khôi phục lại quan tước và ban cho con cháu ông 100 mẫu ruộng
Năm 1484 Lê Thánh Tông truy tặng làm thiếu phó Liệt quốc công, sau lại truy tặng làm Hiển Khánh (Ứng) Vương Thượng đẳng phúc thần, cho thờ miếu ở làng Kim Bôi (nay là làng Giang Đông, xã Vĩnh Hòa).
6. Tham khảo
– Internet
– Ấn phẩm
Đại Việt thông sử
Gia phả Trịnh tộc
Tộc phả Trịnh Thượng Phúc
Lịch triều Hiến chương loại chí