Thành phố Đà Nẵng
1. Thông tin
– Tên đầy đủ: Thành phố Đà Nẵng,
Tên khác: Đà Nẵng (沱㶞 hoặc 陀㶞), Thành phố của những cây cầu, Thành phố bên sông Hàn, Đà Thành.
Ký tự Hán Việt được ghi chép sớm nhất trong sách Ô Châu cận lục (in lần đầu năm 1555 của Dương Văn An) nói đến cửa biển Đà Nẵng tại quyển 5, “Tự từ” (寺祠, chùa và đền), “Thần từ” (神祠, đền thờ thần), “Tùng Giang từ” (松江祠, đền Tùng Giang) nguyên văn như sau: 松江祠。祠在思榮縣思客海門,並在廣南陀㶞海門。Nghĩa là Đền Tùng Giang. Đền ở cửa biển Tư Khách, huyện Tư Vinh, còn một đền nữa ở cửa biển Đà Nẵng, Quảng Nam.
Nếu phiên âm Hán-Việt thì đọc là Đà Nhương. Còn tên ngày nay thì là một dạng của từ Chăm cổ “Da nak” nghĩa là cửa sông lớn. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu về Chăm lại có ý kiến khác:
Nhà nghiên cứu Inrasara cho rằng từ chăm cổ là “Đaknan”. Đak là nước, nan hay nưn, tức lanưng có nghĩa là rộng, toàn câu có nghĩa là vùng nước rộng mênh mông ở cửa sông Hàn.
Nhà nghiên cứu Sakaya cho rằng có thể tên đó xuất phát từ nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer là Đakdơng – Đà dơng có nghĩa là con sông. DDaanaang trong tiếng Chăm và Raglai cổ , cùng thuộc ngôn ngữ Malayo-Polynesia có nghĩa là nguồn.
Tên cũ: Hiện Cảng, Cửa Hàn, Porte de Kéan, Turaon, Touron, Turon, Tourane, Thái Phiên,…
Người Trung Quốc gọi là Hiện Cảng (蜆港, sau được đổi thành 峴港 có nghĩa là bến hến). Tàu thuyền của Trung Quốc ngày xưa cập bến thường lấy hòn Sơn Chà có hình dáng giống con hến làm mốc định vị phương hướng. Còn có tên khác là Cửa Hàn nghĩa là cửa của sông Hàn. Theo Võ Văn Dật thì tên này là do cách đọc Việt hóa của tên người Trung gọi.
Năm 1615 giáo sĩ Buzomi đã gọi tên là Porte de Kéan.
Năm 1652 Sanson d’Abbeville vẽ bản đồ châu Á và ghi là Turaon
Năm 1618 giáo sĩ Christoforo Borri viết hồi ký về xứ Đàng Trong của Chúa Nguyễn đã ghi là Touron.
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes nhiều lần gọi là Turon, trong bản đồ lại ghi là Kean có nghĩa là Kẻ Hàn .
Từ năm 1888 cho đến hết thời Pháp thuộc, có tên chính là Tourane. Có thể giải thích là lối nói trại từ Châu Ranh (chỉ ranh giới Việt Nam và Châu Thành) hoặc bắt nguồn từ tên làng Thạc Gián viết nhầm thành Tu Gián, hay một địa danh có tên là Tourane vốn là một casi tháp (tour) trên cửa Hàn.
Tên dân gian là Vũng Thùng (một vụng nhỏ phía đông bắc phường Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà nơi neo đậu tàu thuyền của cư dân)
Các nhà Nho gọi là Trà U, Trà A, Trà Sơn, Đồng Long Loan.
Sau tháng 8/19545 đổi tên thành Thái Phiên.
– Ngày thành lập: 24/5/1889
– Trụ sở: 24 – đường Trần Phú, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
– Website
Mã bưu chính: 55xxxx
Mã điện thoại: 236
– Bài ca đại diện
Đà Nẵng Quê ta giải phóng rồi – Nguyễn Đức Toàn
Cô Du kích Đà Nẵng – Thanh Anh
Sông Hàn vang tiếng hát – Huy Du
Đà Nẵng Thành phố tôi yêu – Thanh Anh
Đà Nẵng tình người – Đình Thậm
Chiều Đà Nẵng – Trần Hoàn
Đà Nẵng Thành phố tuổi thơ tôi – Hoàng Dũng
Đà Nẵng yêu thương
Đà Nẵng mến yêu
2. Vị trí
a) Phần đất liền
– Tọa độ: 15°15′-16°40’B và 107°17′-108°20’Đ.
– Nằm ở phía đông bắc, khu vực vùng Duyên hải nam trung bộ.
– Phía đông giáp biển Đông
Phía tây và nam giáp tỉnh Quảng Nam
Phía bắc giáp giáp tỉnh Thừa Thiên – Huế
– Các điểm cực: Cực bắc là phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu. Cực tây là xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang. Cực nam là xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang. Cực đông là phường Thọ Quang, quận Sơn Trà.
b) Phần biển
– Tọa độ: 15°45’-17°15’B, 111°-113°Đ
– Thuộc quần đảo Hoàng Sa (đang bị chiếm đóng bởi Trung Quốc)
– Các điểm cực: Cực bắc tại Bãi đá Bắc. Cực nam tại Bãi ngầm Ốc Tai Voi. Cực Đông tại Bãi Gò Nổi. Cực Tây tại Đảo Tri Tôn.
3. Địa lý
– Diện tích: 1.284,9 km2 + 10 km2 đảo
Địa hình thiên nhiên khá đa dạng, có biển, bán đảo, vùng vịnh, đồi núi, sông, suối, đồng bằng.
Vùng núi cao và dốc tập trung ở phía tây và tây bắc, từ đây có nhiều dãy núi chạy dài ra biển, một số đồi thấp xen kẽ vùng đồng bằng ven biển hẹp. Địa hình đồi núi chiếm diện tích lớn, độ cao khoảng từ 700 – 1.500 m, độ dốc lớn (>40o), là nơi tập trung nhiều rừng đầu nguồn và có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái của thành phố.
Đồng bằng ven biển là vùng đất thấp chịu ảnh hưởng của biển bị nhiễm mặn, là vùng tập trung nhiều cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, quân sự, đất ở và các khu chức năng của thành phố.
Ở khu vực cửa sông Hàn và sông Cu Đê địa hình đáy biển bị phức tạp và tạo ra một số bãi cạn, trũng ngầm (lòng sông). Khu vực cửa vịnh ra ngoài khơi địa hình nhìn chung là nghiêng thoải về phía đông bắc. Khoảng cách các đường đẳng sâu khá đều đặn.
Quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam ) gồm hai cụm đảo chính là Cụm đảo Lưỡi Liềm ở phía tây và Cụm đảo An Vĩnh ở phía đông. Cụm đảo Lưỡi Liềm nằm về phía tây, có hình cánh cung hay lưỡi liềm, bao gồm các đảo là Hoàng Sa, Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh, Quang Hòa, Bạch Quy, Tri Tôn cùng các mỏm đá, bãi ngầm.
Cụm đảo An Vĩnh nằm về phía đông bao gồm các đảo tương đối lớn của quần đảo Hoàng Sa và cũng là các đảo san hô lớn nhất của biển Đông như đảo Phú Lâm, đảo Cây, đảo Linh Côn, đảo Trung, đảo Bắc, đảo Nam và cồn cát Tây. Nhiều thực thể trong quần đảo biểu hiện dạng vành khuyên cổ của các rạn san hô vòng Thái Bình Dương, vốn dĩ là kết quả phát triển của san hô cộng với sự lún chìm của vỏ Trái Đất.
Hình thái địa hình các đảo tương đối đơn giản nhưng mang đậm bản sắc của địa hình ám tiêu san hô vùng nhiệt đới có cấu tạo ba phần khác nhau đó là phần đảo nổi, hành lang bãi triều (thềm san hô) bao quanh đảo và sườn bờ ngầm dốc đứng. Đa số các đảo nổi có độ cao dưới 10 m.
Hệ thống sông ngòi ngắn và dốc, bắt nguồn từ phía tây, tây bắc và tỉnh Quảng Nam. Có hai sông chính là sông Hàn với chiều dài khoảng 204 km, tổng diện tích lưu vực khoảng 5.180 km² và sông Cu Đê với chiều dài khoảng 38 km, lưu vực khoảng 426 km².
Ngoài ra, trên địa bàn thành phố còn có các sông khác: sông Yên, sông Chu Bái, sông Vĩnh Điện, sông Túy Loan, sông Phú Lộc… Các sông đều có hai mùa: mùa cạn từ tháng 1 đến tháng 8 và mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 12. Thành phố còn có hơn 546 ha mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản.
Nguồn nước ngầm tệp đá vôi Hòa Hải – Hòa Quý ở chiều sâu tầng chứa nước 50-60 m; khu Khánh Hòa có nguồn nước ở độ sâu 30-90 m.
4. Tài nguyên thiên nhiên
a) Khoáng sản
Nằm ở rìa của miền uốn nếp Paleozoi được biết đến với tên gọi Đới tạo núi Trường Sơn – nơi mà những biến dạng chính đã xảy ra trong kỷ Than đá sớm. Cấu trúc địa chất gồm có năm đơn vị địa tầng chủ yếu, lần lượt từ dưới lên là: hệ tầng A Vương, hệ tầng Long Đại, hệ tầng Tân Lâm, hệ tầng Ngũ Hành Sơn và trầm tích Đệ Tứ.
Trong đó các hệ tầng A Vương, Long Đại, Tân Lâm có thành phần thạch học chủ yếu là đá phiến và cát kết. Hệ tầng Ngũ Hành Sơn chủ yếu là đá vôi hoa hóa màu xám trắng. Trầm tích Đệ Tứ bao gồm các thành tạo sông, sông – biển, biển, biển – đầm lầy có tuổi từ Pleistocen sớm đến Holocen muộn, chủ yếu là cát, cuội, sỏi, cát pha, sét pha,… Vỏ Trái Đất tại lãnh thổ thành phố Đà Nẵng bị nhiều hệ thống đứt gãy theo phương gần á vĩ tuyến và phương kinh tuyến chia cắt, làm giảm tính liên tục của đá, giảm độ bền của chúng, nhất là tạo nên các đới nứt nẻ tăng cao độ chứa nước.
b) Khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ cao và ít biến động. Là nơi chuyển tiếp đan xen giữa khí hậu cận nhiệt đới ở miền Bắc và nhiệt đới xavan ở miền Nam, với tính trội là khí hậu nhiệt đới ở phía Nam. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, thỉnh thoảng có những đợt rét mùa đông nhưng không đậm và không kéo dài.
Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25,8 °C; cao nhất vào các tháng 6, 7, 8, trung bình 28-30 °C; thấp nhất vào các tháng 12, 1, 2, trung bình 18-23 °C. Riêng vùng rừng núi Bà Nà ở độ cao gần 1.500 m, nhiệt độ trung bình khoảng 20 °C. Độ ẩm không khí trung bình là 83,4%.
Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.153 mm; lượng mưa cao nhất vào các tháng 9, 10, 11, trung bình 465 mm/tháng; thấp nhất vào các tháng 2, 3, 4, trung bình 27 mm/tháng. Số giờ nắng bình quân trong năm là 2.182 giờ; nhiều nhất là vào tháng 5, 6, 7, trung bình 246 giờ/tháng; ít nhất là vào tháng 11, 12, 1, trung bình 121 giờ/tháng.
Mỗi năm chịu ảnh hưởng trực tiếp từ một đến hai cơn bão hoặc áp thấp nhiệt đới. Năm 2006 ảnh hưởng bởi bão Xangsane – cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào Đà Nẵng trong 100 năm qua.
Thời gian nắng ở quần đảo Hoàng Sa dao động trong khoảng từ 2.300 đến 2.500 giờ/năm. Nhiệt độ không khí tối thấp trung bình ở vùng biển quần đảo là 22-24 °C trong tháng 1, tăng dần và đạt cực đại trung bình 28.5-29 °C trong tháng 6 và tháng 7.
Chế độ gió vùng quần đảo Hoàng Sa phức tạp và thể hiện ảnh hưởng của địa hình lục địa Việt Nam và Trung Quốc. Gió tây nam chiếm ưu thế vào mùa hè; gió đông bắc chiếm ưu thế trong mùa đông. Lượng mưa trung bình năm ở Hoàng Sa là khoảng 1.300-1.700 mm. Độ ẩm tương đối trung bình 80-85% và hầu như không biến động nhiều theo mùa.
c) Sinh thái
d) Môi trường
Quá trình mở rộng không gian đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác tài nguyên đất và sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp, du lịch của địa phương đã gây nên những tác động đến môi trường không khí, môi trường sinh thái và đa dạng sinh học của thành phố.
Năm 2010, tổng lượng nước thải công nghiệp khoảng 6.835 m³/ngày. Các dự án lấn biển như Khu Đô thị Đa Phước, Khu Dịch vụ Thủy sản Thọ Quang, Khu Dịch vụ Hậu cần Cảng Đà Nẵng… có nguy cơ tác động đến môi trường, hệ sinh thái vùng bờ Đà Nẵng.
Năm 2006 cho thấy diện tích san hô khu vực ven biển Đà Nẵng không có khả năng phục hồi là 81%.
Năm 2012, Khu Dịch vụ Thủy sản Thọ Quang là điểm nóng nhất về ô nhiễm môi trường trên địa bàn thành phố. Chất lượng nước ở các con sông cũng có vấn đề, đặc biệt là vùng hạ lưu, các sông đều bị ô nhiễm bởi một lượng khá lớn coliform, BOD5, COD và các chất khác. Trong nội ô thành phố Đà Nẵng, lượng bụi, lưu huỳnh điôxit, tiếng ồn, hóa chất độc hại đều vượt tiêu chuẩn cho phép.
Trước tình trạng ô nhiễm môi trường, vào tháng 10 năm 2008, thành phố Đà Nẵng đã phê duyệt đề án “Xây dựng Đà Nẵng – Thành phố môi trường”. Đề án được xây dựng trên tiêu chí đến năm 2020, các yêu cầu về chất lượng môi trường đất, chất lượng môi trường nước, chất lượng môi trường không khí trên toàn thành phố được đảm bảo, tạo sự an toàn về sức khỏe và môi trường cho người dân, các nhà đầu tư, cho du khách trong và ngoài nước khi đến với Đà Nẵng.
5. Tổ chức chính trị
– Chủ tịch UBND từng thời kỳ
Huỳnh Đức Thơ
– Chủ tịch HĐND từng thời kỳ
Nguyễn Nho Trung
– Bí thư Thành ủy từng thời kỳ
Nguyễn Văn Quảng
6. Hành chính
– Mã hành chính: VN-60
– Đơn vị hành chính: 6 quận và 2 huyện (trong đó gồm 56 đơn vị hành chính cấp xã: 45 phường và 11 xã. Ngoại trừ quận Cẩm Lệ, năm quận còn lại của thành phố đều giáp biển).
Quận Cẩm Lệ
Quận Hải Châu
Quận Liên Chiểu
Quận Ngũ Hành Sơn
Quận Sơn Trà
Quận Thanh Khê
Huyện Hòa Vang
Huyện Hoàng Sa
7. Lịch sử
Thành phố Đà Nẵng nằm trong vùng đất xứ Quảng, nơi các cư dân cổ thuộc Văn hóa Sa Huỳnh đã định cư từ hàng nghìn năm trước. Đồng bằng xứ Quảng đã dựng lên một nền văn minh lúa nước và dâu tằm nổi tiếng. Người Sa Huỳnh không chỉ là những cư dân nông nghiệp mà còn đi biển và có hoạt động giao thương bằng đường biển khá phát triển.
Tại di tích Vườn Đình Khuê Bắc (phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn), các nhà khảo cổ học đã phát hiện và khai quật được những vết tích liên quan đến nơi ở và nơi chôn cất của cư dân thuộc thời kỳ Tiền Sa Huỳnh, cách đây khoảng 3.000 năm và một số hiện vật ở những lớp đất phía trên thuộc thời kỳ Chăm Pa sớm, cách đây gần 2.000 năm.
Khi nhà nước Chăm Pa ra đời, vùng đất Đà Nẵng thuộc về tiểu quốc Amaravati. Tại tiểu quốc này đã có ít nhất hai vương triều là Lâm Ấp và Indrapura tồn tại. Những dấu tích của thời kỳ Chăm Pa còn biểu hiện khá đậm nét qua các di tích từ miếu thờ tín ngưỡng ở Đình Dương Lâm (xã Hòa Phong) chỉ thờ ngẫu tượng Linga – Yony quy mô nhỏ bé đến các phế tích có quy mô lớn như lũy đất Thành Lồi, phế tích của các tháp Chăm như Tháp Quá Giáng, Tháp Xuân Dương và Tháp Phong Lệ.
Trên địa bàn chùa ở Ngũ Hành Sơn còn lưu giữ một số hiện vật Chăm Pa như bệ thờ, mảnh bệ thờ, mảnh góc bệ thờ được khắc tạc với các đề tài như tượng, voi, sư tử, Drappla, hoa dây uốn xoắn,… thuộc phong cách nghệ thuật Đồng Dương thế kỷ IX. Ngoài ra còn có các giếng cổ Chăm Pa phân bố rải rác ở nhiều địa phương.
Cuộc khai quật di tích Chăm ở làng Phong Lệ (quận Cẩm Lệ) năm 2012 với việc phát hiện nền tháp Chăm có kích thước lớn nhất từ trước đến nay đã đưa đến giả thuyết: “rất có thể hơn 1.000 năm trước, vùng đất này là một trung tâm kinh tế, đô thị sầm uất hoặc là nơi giao thương qua lại”.
Trong nửa sau của thế kỷ thứ X, các vua của vương triều Indrapura đã xung đột với Đại Việt Năm 982, ba sứ thần mà Lê Hoàn (người sáng lập ra nhà Tiền Lê) gửi đến Chăm Pa đã bị bắt giữ. Lê Hoàn đã quyết định mở một cuộc tấn công vào vương quốc Indrapura và giết chết vua Chăm Parameshvaravarman I. Như một kết cục của sự thất bại, người Chăm cuối cùng đã bỏ rơi Indrapura vào khoảng năm 1000.
Năm 1306, thông qua cuộc hôn nhân của Vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) với Công chúa Huyền Trân bằng việc nhượng hai châu Ô, Lý cho nhà Trần, thì các làng xóm của người Việt bắt đầu được hình thành.
Tháng 1/1307 (Đinh Mùi) vua Trần Anh Tông sai đổi tên châu Ô và châu Lý thành châu Thuận và châu Hóa. Đà Nẵng thuộc châu Hóa.
Năm 1446 Đà Nẵng thuộc địa phận của huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong, thừa tuyên Thuận Hóa. Sau khi sáp nhập vào Đại Việt, vùng Đà Nẵng trở vào vẫn là miền biên viễn, luôn bị quấy nhiễu và cướp phá.
Năm 1470, Lê Thánh Tông đánh bại quân Chiêm Thành và mở rộng biên giới Đại Việt đến mũi Nạy (giữa Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay). Những cư dân Việt đến sinh sống ở vùng này đã tiếp nhận và cải biến những yếu tố của văn hóa Chăm Pa để hòa nhập vào văn hóa Việt.
Giữa thế kỷ XVI, khi Hội An là trung tâm buôn bán sầm uất ở phía nam thì Đà Nẵng nằm ở vị trí tiền cảng với vai trò trung chuyển hàng hóa, tu sửa tàu thuyền.
Đầu thế kỷ XVIII, vị trí tiền cảng của Đà Nẵng dần dần trở thành thương cảng thay thế cho Hội An, nhất là khi kỹ thuật đóng tàu ở châu Âu phát triển; những loại tàu thuyền lớn, đáy sâu có thể ra vào vịnh Đà Nẵng dễ dàng. Các Chúa Nguyễn cũng đánh dấu sự thành lập của Hải đội Hoàng Sa với nhiệm vụ ra đóng ở quần đảo Hoàng Sa, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo và những hóa vật do lấy được từ những tàu đắm đem về nộp cho triều đình. Quá trình hoạt động của Hải đội Hoàng Sa cũng là quá trình xác lập và thực thi chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa (và Trường Sa) kéo dài từ đầu thế kỷ XVII.
Năm 1797, quân Nguyễn Ánh đem đại binh tiến đánh Đà Nẵng.
Năm 1813, triều đình sai Nguyễn Văn Thành lập pháo đài Điện Hải và đồn An Hải nằm hai bên tả hữu sông Hàn để quan sát ngoài biển và phòng thủ Đà Nẵng. Trung tâm hành chính của tỉnh Quảng Nam được chuyển từ Dinh Chiêm (gần Hội An) ra đại đồn La Qua (Vĩnh Điện). Đặc biệt, Gia Long quy định việc đón tiếp các đoàn sứ ngoại quốc đến quan hệ với vương triều nhất định phải vào cửa biển Đà Nẵng mà không được cập bến tại bất kỳ một cửa biển nào khác.
Năm 1816, Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thủy trình.
Năm 1835 vua Minh Mạng thứ 15 cho xây miếu, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa được trao nhiều nhiệm vụ: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ quần đảo. Hải đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương. Đồn đổi tên là thành Điện Hải.
Chỉ dụ của vua Minh Mạng có đoạn chép: “…tàu Tây đậu tại cửa Hàn, còn các cửa biển khác không được vào, phép nước rất nghiêm, chẳng nên làm trái… Từ nay về sau, người Tàu phải đi tàu buôn nước Tàu, mới cho vào cửa biển, người Tây phải đi tàu nước Tây vào cửa Hàn thông thương, không được ghé vào các cửa biển khác…”
Tháng 3/1847, Augustin de Lapierre chỉ huy tàu Gloire cập bến Đà Nẵng, trình thư cho nhà Nguyễn nhưng bị từ chối. Ngày 15/4, tàu Pháp đụng độ với bốn tàu của triều đình Huế và đánh tan quân triều đình chỉ sau hai giờ giao tranh.
Giữa tháng 9/1856, tàu Catinat do Lelieur chỉ huy ghé Đà Nẵng, trình quốc thư nhưng tiếp tục bị nhà Nguyễn từ chối. Ngày 28/9, phía Pháp cho tàu Catinat nã súng vào các pháo đài bảo vệ Đà Nẵng và cho quân đổ bộ đóng đinh vô hiệu hóa nhiều khẩu thần công của Việt Nam. Pháp đã sáu lần gửi chiến hạm đến Đà Nẵng.
Năm 1858, cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng.
Ngày 25/8/1883, triều đình Huế buộc phải ký với Pháp Hiệp ước Harmand. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa ở đây.
Ngày 17/8/1888, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập ba thành phố ở Việt Nam là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Ngày 3/10 Vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản quy định rõ “…Đà Nẵng được chính phủ Đại Nam kiến lập thành nhượng địa Pháp và nhượng trọn quyền cho chính phủ Pháp, và chính phủ Đại Nam từ bỏ mọi quyền hành trên lãnh thổ đó“. Theo phụ đính của đạo dụ này, năm xã của huyện Hòa Vang gồm Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây nằm bên tả ngạn sông Hàn được cắt giao cho Pháp để lập “nhượng địa” Tourane với diện tích 10.000 ha.
Ngày 24/5/1889, Toàn quyền Đông Dương Étienne Richaud ra nghị định thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam. Đà Nẵng là thành phố loại 2, tương tự như thành phố Chợ Lớn thành lập trước đó. Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương thay vì triều đình Huế. Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý do Khâm sứ đề nghị và Toàn quyền bổ nhiệm.
Ngày 15/1/1901, dưới sức ép của Pháp, Vua Thành Thái buộc phải ký một đạo dụ nới rộng nhượng địa Đà Nẵng thêm 14 xã, cụ thể là thêm 8 xã thuộc huyện Hòa Vang bên tả ngạn sông Hàn và 6 xã thuộc huyện Diên Phước bên hữu ngạn sông Hàn.
Ngày 19/9/1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách Đà Nẵng khỏi tỉnh Quảng Nam để trở thành một đơn vị hành chính độc lập gồm 19 xã. Như vậy vào đầu thế kỷ XX, thành phố Tourane/Đà Nẵng đã vươn về phía tây và tây bắc, còn phía đông thì đã vượt sang hữu ngạn sông Hàn chiếm trọn bán đảo Sơn Trà.
Đầu thế kỷ XX, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu Tây phương. Cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu, sửa chữa tàu thuyền, kinh doanh dịch vụ được hình thành và phát triển; cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane trở thành trung tâm thương mại quan trọng.
Ngày 8/3/1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố quần đảo Hoàng Sa (và Quần đảo Trường Sa) là lãnh thổ của Pháp. Viện Hải dương học và Nghề cá Nha Trang đã thực hiện các cuộc khảo sát ở Hoàng Sa.
Năm 1926 sân bay dân dụng cũng được nhà cầm quyền sớm xây dựng.
Năm 1936, Đà Nẵng có 25.000 người
Năm 1938, Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và tiến hành dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm vô tuyến, trạm khí tượng trên đảo Hoàng Sa cùng một trạm khí tượng nữa trên đảo Phú Lâm. Ngày 15/6 Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié thành lập đại lý hành chính ở quần đảo Hoàng Sa. Cũng trong tháng 6 một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú Hoàng Sa.
Năm 1945 dân số có khoảng 30.000 người.
Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại.
Năm 1954 dân số có khoảng 50.000 người
Tháng 10/1955, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành phân chia lại địa giới hành chính. Lúc này, Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam.
Tháng 2/1956, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (tức Trung Quốc) đã chiếm quyền kiểm soát đảo Phú Lâm ở nhóm đảo An Vĩnh (phần phía đông của quần đảo). Phần kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa chỉ giới hạn ở nhóm đảo Lưỡi Liềm (mà họ còn gọi là nhóm Nguyệt Thiềm, là phần phía tây của quần đảo) với năm đảo san hô là Hoàng Sa, Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh và Quang Hòa. Tháng 3 các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Sân bay Đà Nẵng được coi là một trong những sân bay “tấp nập” nhất trong chiến tranh.
Ngày 13/7/1961 sau Hiệp định Gienève Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh 174-NV quy thuộc quần đảo này vào tỉnh Quảng Nam và thiết lập tại đó một đơn vị hành chính lấy tên là xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang.
Ngày 31/7/1962, tỉnh Quảng Nam được tách thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín. Đà Nẵng trực thuộc trung ương.
Năm 1964 dân số thành lên mức 148.599 người
Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến thuật. Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng phục vụ cho mục đích quân sự như sân bay, cảng, kho bãi, cơ sở thông tin liên lạc…
Năm 1973, khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho phân chia lại địa giới hành chính Đà Nẵng, giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường. Thị xã Đà Nẵng được đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng thị xã gồm 12 ủy viên và do một Thị trưởng đứng đầu. Do chính sách đô thị hoá, dân số Đà Nẵng ngày càng tăng nhanh.
Ngày 19/1/1974 hải chiến Hoàng Sa diễn ra và Việt Nam Cộng hòa đánh mất hoàn toàn nhóm Nguyệt Thiềm.
Năm 1975 dân số đạt gần 500.000 người. Cảng Đà Nẵng là nơi cung cấp hàng hóa cho cả vùng I chiến thuật, đồng thời là trung tâm tiếp tế cho gần 3 triệu dân miền Nam. Toàn thị xã khi đó có hàng chục công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Người dân Đà Nẵng chủ yếu sống bằng nghề buôn bán. Thành phố Đà Nẵng đã đầu tư cho quy hoạch đôi bờ sông Hàn với những công viên, đường đi dạo dọc hai bờ sông, nhiều cây cầu tiếp nhau nối liền hai bờ đông tây. Sông Hàn trở thành “chiếc ban công” thể hiện bộ mặt đô thị Đà Nẵng. Các dự án bất động sản hàng trăm triệu đô la Mỹ được đầu tư xây dựng hai bên sông Hàn, đặc biệt trong khu vực trung tâm với các công trình quy mô rất lớn tạo điểm nhấn cho thành phố. Tòa nhà Trung tâm Hành chính Thành phố cao 167m với 34 tầng là tòa nhà trung tâm hành chính cao nhất Việt Nam. Hiện nay tòa nhà cao nhất Đà Nẵng (và cũng là cao nhất miền Trung) là tòa nhà Wyndham Soleil Đà Nẵng D cao 180m với 50 tầng (đã xây xong phần thô, đang trong quá trình hoàn thiện đưa vào sử dụng cuối năm 2020).
Sau khi hòa bình lập lại, Đà Nẵng là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, gồm 28 phường: An Hải Bắc, An Hải Đông, An Hải Tây, An Khê, Bắc Mỹ An, Bình Hiên, Bình Thuận, Chính Gián, Hải Châu I, Hải Châu II, Hòa Cường, Hòa Thuận, Khuê Trung, Mân Thái, Nại Hiên Đông, Nam Dương, Phước Mỹ, Phước Ninh, Tam Thuận, Tân Chính, Thạc Gián, Thạch Thang, Thanh Bình, Thanh Lộc Đán, Thọ Quang, Thuận Phước, Vĩnh Trung, Xuân Hà.
Ngày 8/5/1989 Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đề cập đến vấn đề đưa Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương hoặc trở thành Đặc khu kinh tế Đà Nẵng.
Ngày 5/5/1990, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 2.
Ngày 16/10 – 19/10/1991 Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng lần thứ XV diễn ra bàn bạc, thảo luận đề nghị Trung ương cho tách Đà Nẵng thành thành phố trực thuộc Trung ương hoặc xây dựng quy chế riêng cho Đặc khu kinh tế của duyên hải Miền Trung.
Năm 1994, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 và khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 23/4 – 27/4/1996 Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng lần thứ XVI đã kiến nghị chia tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Ngày 8/10 Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng Mai Thúc Lân nhận được Công điện 75/CCHC/TW của Trung ương có nêu rõ ngày 7/10/1996, Bộ Chính trị đã có Thông báo số 06/TB-TW về việc nhất trí chia tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam. Tỉnh ủy phải chỉ đạo hoàn tất thủ tục để kịp trình Quốc hội quyết định trong cuộc họp giữa tháng 10 này. Ngày 9/10 Thường trực Tỉnh ủy đã có cuộc họp liên tịch của Thường trực Hội đồng nhân dân, Thường trực Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh để bàn việc triển khai Công điện của Trung ương. Ngày 11/10 Hội nghị Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng đã nghe Ủy ban nhân dân tỉnh trình bày phương án được xem hợp lý nhất. Ngày 12/10 Hội đồng nhân dân tỉnh đã họp để thảo luận và biểu quyết phương án chia tách. Hội đồng nhân dân tỉnh đã thống nhất chọn phương án Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương được hình thành từ ba đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng gồm thành phố tỉnh lỵ “Đà Nẵng ba khu vực”, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa đồng thời nhất trí lấy thị xã Tam Kỳ làm tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam. Ngày 6/11 tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua nghị quyết cho phép tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương. Về địa giới hành chính, thành phố Đà Nẵng mới bao gồm thành phố Đà Nẵng trước đây cộng với huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa. Trên thực tế thì quần đảo Hoàng Sa đang nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc và Ủy ban Nhân dân huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng. Cùng ngày, Quốc hội Việt Nam tách huyện Hoàng Sa khỏi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng. Huyện Hoàng Sa được xác định có diện tích 305 km², với địa giới bao gồm một quần đảo có tên gọi là Hoàng Sa nằm cách đất liền khoảng 170 hải lý (315 km)
Ngày 1/1/1997, Đà Nẵng chính thức trở thành thành phố trực thuộc trung ương. Ngày 23/1 thành lập 5 quận Hải Châu, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Thanh Khê.
Năm 2001, thành phố đề ra kế hoạch thực hiện chương trình “Thành phố 5 không”: không hộ đói, không có người mù chữ, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy trong cộng đồng và không có cướp của, giết người. Sau kết quả ban đầu của chương trình “Thành phố 5 không”, Đà Nẵng lại tiếp tục với chương trình “Thành phố 3 có”: có nhà ở, có việc làm và có nếp sống văn hóa, văn minh đô thị.
Ngày 15/7/2003, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 1 cùng với Hải Phòng.
Năm 2005, một phần huyện Hòa Vang (các xã Hòa Thọ, Hòa Phát và Hòa Xuân) và quận Hải Châu (phường Khuê Trung) được tách ra và thành lập nên quận mới là quận Cẩm Lệ.
Tháng 6/2012, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam. Điều 1 đã khẳng định lại tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngày 4/7 kỳ họp thứ 4 Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa VIII nhiệm kỳ 2011-2016 đã thông qua Nghị quyết phản đối Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa.
Năm 2016, thành phố đề ra Chương trình “Thành phố 4 an”: An ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn thực phẩm và an sinh xã hội.
8. An ninh quốc phòng
9. Kinh tế
Sau ngày chiến tranh Việt Nam chấm dứt, cơ sở hạ tầng của Đà Nẵng còn lại gần như nguyên vẹn nhưng quy mô ngành công nghiệp vẫn nhỏ bé, đồng thời đất đai ven thành phố bị bỏ hoang. Trải qua kế hoạch năm năm 1976-1980, thành phố đạt được một số thành tựu như công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 14,7%/năm, tổ chức khai hoang được 700 ha đất,… Tổng kết kế hoạch năm năm 1981-1985 kế tiếp, sản lượng công nghiệp thành phố trong năm 1985 tăng 47% so với năm 1982; số thu ngân sách năm 1985 gấp 5,3 lần so với năm 1983.
Tuy vậy, giai đoạn 1986-1990 chứng kiến khó khăn chung của cả nền kinh tế, trong đó có kinh tế Đà Nẵng. Giá trị sản xuất công nghiệp bị sụt giảm, năm 1990 chỉ bằng 95,5% so với năm 1985; một số cơ sở phải dừng hoạt động hoặc giải thể; số lượng xí nghiệp quốc doanh sụt giảm từ 64 xuống còn 59. Từ sau năm 1991, kinh tế thành phố dần đi vào ổn định và tăng trưởng. Bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1991-1998 là 15,6%/năm, cao hơn trung bình của cả nước.
Sau khi trở thành thành phố trực thuộc trung ương, GDP bình quân giai đoạn 1997-8/2000 tăng 9,66%/năm; tỉ lệ đói nghèo giảm từ 8,79% của năm 1997 xuống còn hơn 2% vào năm 2000. Năm 2003, Đà Nẵng chiếm 1,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của toàn Việt Nam, tăng so với mức 1,31% của năm 1996 (năm cuối cùng còn thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng). Từ năm 2015-2020, Đà Nẵng đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 6,5 – 7%/năm.
Tổng sản phẩm nội địa theo giá hiện hành (GRDP) trên địa bàn năm 2019 là 112.000 tỷ đồng tương đương 4,9 tỷ USD, xếp thứ 14 cả nước. GRDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 95,7 triệu đồng tương đương với 4.117 USD. Tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,47%, xếp thứ 60 cả nước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt gần 106.600 tỷ đồng.
Lực lượng lao động của thành phố năm 2005 là 386.487 người đến năm 2010 đã tăng lên 462.980 người, chiếm 49,14% dân số. Đây là nguồn cung đảm bảo cho nền kinh tế phát triển, nhất là chất lượng lao động ngày một tăng; tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 37% năm 2005 tăng lên 50% năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 25,5% năm 2005 lên 37% năm 2010.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2019 đạt gần 2,988 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 1,623 tỷ đồng, kim ngạch nhập khẩu đạt 1,365 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn năm 2019 ước đạt hơn 39.712 tỷ đồng, tăng 2.84% so với năm 2018. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2019 là hơn 28.170 tỷ đồng, trong đó thu nội địa đạt 24.420 tỷ đồng.
Năm 2019, kinh tế thành phố chỉ tăng 6,47% (mức tăng thấp nhất trong 7 năm trở lại đây). Vì vậy, Đà Nẵng là địa phương có tốc độ tăng GRDP thấp nhất trong 5 thành phố trực thuộc trung ương. Tỉ lệ vốn đầu tư trên GRDP đang dần thu hẹp, năm 2019 chỉ đạt 36,4%, thấp nhất trong giai đoạn 2016-2019.Vốn đầu tư thực hiện năm 2019 ước đạt 39.712 tỷ đồng tăng 2,84% so với 2018. Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 28.170 tỷ đồng, tăng 3,5% so với 2018. Tổng chi ngân sách đạt 24.372 tỷ đồng, tăng 30,25% so với 2018. Đến cuối tháng 12, tổng nguồn vốn huy động ước đạt 131.500 tỷ đồng, tăng 4,6% so với cùng kỳ, tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế ước đạt 175.000 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ.
Tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP năm 2019 là 57%, công nghiệp – xây dựng là 41% và nông nghiệp là 2%. Đến năm 2020, ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng trong GDP từ 62-65%, công nghiệp-xây dựng 35-37%, nông nghiệp 1-3%. Thành phố Đà Nẵng cũng là nơi đặt hội sở của Tập đoàn Sun Group được thành lập năm 2007 và hiện nay tập đoàn có nhiều dự án lớn trên khắp các tỉnh thành của đất nước.
a) Nông nghiệp
b) Thủ công nghiệp
Ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân 20%/năm. Thuỷ sản, dệt may, da giày, cao su,… là những lĩnh vực mũi nhọn được tập trung phát triển. Bên cạnh đó, thành phố Đà Nẵng còn chú tâm đến ngành Công nghệ thông tin (Công viên Phần mềm Đà Nẵng, Khu đô thị Công nghệ FPT Đà Nẵng, Khu Công nghệ cao Quốc gia Đà Nẵng), ngành công nghệ sinh học (Trung tâm Công nghệ Sinh học Đà Nẵng).
Đà Nẵng còn chủ trương ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sạch phục vụ mục tiêu “Xây dựng Đà Nẵng – Thành phố môi trường”. Năm 2008, chính quyền thành phố đã từ chối hai dự án FDI sản xuất thép và giấy với tổng vốn đăng ký lên đến 2,5 tỷ đô la Mỹ.
Khu công nghệ cao Đà Nẵng với số vốn đầu tư ban đầu 8.156 tỷ đồng là một trong ba khu công nghiệp công nghệ cao trên cả nước, cùng với Khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh và Khu Công nghệ cao Hoà Lạc. Đến nay, Khu công nghệ cao Đà Nẵng đã thu hút được một số dự án công nghiệp có vốn đầu tư lớn, như: Nhà máy sản xuất linh kiện hàng không vũ trụ Sunshine (Hoa Kỳ) hay Nhà máy sản xuất Robot và máy nén bụi khí Alton (Hoa Kỳ),… Dự kiến, đến năm 2030, Khu công nghệ cao Đà Nẵng sẽ đóng góp 25,5% vào cơ cấu GRDP của toàn thành phố, tạo ra việc làm cho hơn 10.000 lao động tay nghề cao và các chuyên gia, nhà khoa học.
– Các khu công nghiệp:
Khu công nghiệp Hoà Khánh tại quận Liên Chiểu
Khu công nghiệp Hoà Khánh tại quận Liên Chiểu
Khu công nghiệp Liên Chiểu tại quận Liên Chiểu
Khu công nghiệp Hoà Cầm tại quận Cẩm Lệ
Khu công nghiệp Dịch vụ thuỷ sản Đà Nẵng tại quận Sơn Trà
Khu công nghệ cao Đà Nẵng tại xã Hoà Liên, huyện Hoà Vang
– Các cụm công nghiệp
Cụm công nghiệp Thanh Vinh tại quận Liên Chiểu
Cụm công nghiệp Phước Lý tại quận Liên Chiểu
Nông nghiệp công nghệ cao (CNC) là một trong 5 mũi nhọn phát triển kinh tế Đà Nẵng được nêu trong Nghị quyết 43 của Bộ Chính trị. Các khu nông nghiệp:
Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hoà Ninh tại xã Hoà Ninh, huyện Hoà Vang
Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hòa Khương – Hòa Phong tại xã Hòa Khương và Hòa Phong, huyện Hoà Vang
Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hòa Phú tại xã Hòa Phú, huyện Hoà Vang
Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hòa Khương tại xã Hòa Khương, huyện Hoà Vang
Vùng chăn nuôi tập trung gia súc, gia cầm tập trung tại xã Hòa Khương, huyện Hoà Vang
Nuôi trồng, khai tháo thủy sản kết hợp với du lịch sinh thái tại xã Hòa Liên, huyện Hoà Vang
– Trung tâm logistic
Trung tâm Logistics Cảng Liên Chiểu tại quận Liên Chiểu
Trung tâm Logistics Cảng Hàng không quốc tế Đà Nẵng tại Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng
Trung tâm Logistics Khu công nghệ cao tại Khu công nghệ cao Đà Nẵng
Trung tâm Logistics ga hàng hóa Kim Liên tại Ga đường sắt Kim Liên mới, gần KCN Hòa Khánh
c) Thương nghiệp
Chợ Cồn
Chợ Hàn
Chợ Nguyễn Tri Phương
Chợ Đống Đa
Chợ đêm Hòa Khánh
Chợ đêm Helio
Chợ đêm Sơn Trà
Chợ đêm Lê Duẩn
Thành phố có 30 trung tâm thương mại và siêu thị. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 21,1%/năm.
Hiện có hai chợ lớn nhất nằm ở trung tâm thành phố là Chợ Hàn và Chợ Cồn cùng những siêu thị lớn mới mở trong vòng vài năm trở lại đây như Metro, BigC, Vincom, Parkson, Lotte Mart, VV Mall, Indochina Riverside Mall, Soleil Mall, Bach Dang Complex, Golden Square, Co.opMart, Intimex, Viettronimex, Nguyễn Kim…
Các thương hiệu F&B, thời trang lớn cũng dần xuất hiện tại Đà Nẵng trong vòng 2 năm trở lại đây, như: Starbucks, Koi Thé, El Gaucho, Mc Donald’s, Burger King, Chanel, Hermes, Innisfree,…Big C Đà Nẵng – Vĩnh Trung Plaza
Trung tâm tài chính lớn thứ 3 cả nước, trên địa bàn thành phố tính đến năm 2019 có 115 chi nhánh ngân hàng cấp 1, hơn 350 phòng, điểm giao dịch, Quỹ tiết kiệm và 17 đại lý, chi nhánh công ty chứng khoán, các tổ chức cho thuê tài chính, công ty mua bán nợ…
d) Đất đai
10. Giao thông
– Biển số xe: 43
Thành phố Đà Nẵng nằm trên trục giao thông huyết mạch Bắc – Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, điểm cuối trên Hành lang Kinh tế Đông – Tây đi qua các nước Myanma, Thái Lan, Lào và Việt Nam.
a) Đường bộ
Có 2 tuyến đường Quốc lộ là Quốc lộ 1A và Quốc lộ 14B. Việc đưa vào sử dụng hầm đường bộ Hải Vân khiến cho thời gian lưu thông được rút ngắn và giảm tai nạn giao thông trên đèo Hải Vân.
Đường Hoàng Sa – Võ Nguyên Giáp – Trường Sa chạy dọc bờ biển theo hướng nam nối Đà Nẵng với Hội An được mệnh danh là “con đường 5 sao” của Đà Nẵng vì là nơi tập trung hàng loạt nhà hàng, khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp 4 sao và 5 sao đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Nhiều cây cầu đã được xây dựng bắc qua sông Hàn như cầu Thuận Phước, cầu Sông Hàn, Cầu Rồng, cầu Nguyễn Văn Trỗi, cầu Trần Thị Lý, cầu Tình Yêu… Ngày 29/3/2015, thành phố khánh thành cầu vượt khác mức Ngã Ba Huế ở cửa ngõ phía tây, là cầu vượt ba tầng đầu tiên lớn nhất Việt Nam.
Ngày 30/4/2017, hầm chui phía tây cầu Sông Hàn chính thức thông xe sau 7 tháng thi công.
– Các tên đường thay đổi:
Đường Cường Để nay là đường Đống Đa.
Đường Gia Long nay là đường Lý Tự Trọng.
Đại lộ Quang Trung và Đống Đa nay là đường Quang Trung.
Đường Nguyễn Hoàng nay là đường Hải Phòng.
Đại lộ Thống Nhất nay là đường Lê Duẩn.
Đại lộ Hùng Vương và Đồng Khánh nay là đường Hùng Vương.
Đường Trần Hưng Đạo nay là đường Nguyễn Thái Học.
Đường Thành Thái nay là đường Trần Quốc Toản.
Đường Hàm Nghi nay là đường Lê Hồng Phong.
Đường Phan Thanh Giản nay là đường Hoàng Văn Thụ.
Đường Lý Thái Tổ nay là đường Điện Biên Phủ.
Đường Võ Tánh nay là đường Núi Thành.
Đại lộ Độc Lập nay là đường Trần Phú.
Đường Duy Tân và Nguyễn Tri Phương nay là đường Nguyễn Chí Thanh.
Đường Tự Đức và Nguyễn Thị Giang nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Đường Đông Kinh Nghĩa Thục và Yersin nay là đường Ngô Gia Tự.
Đường Khải Định và Ông Ích Khiêm nay là đường Ông Ích Khiêm.
Tuyến đường sắt huyết mạch Bắc – Nam chạy dọc thành phố với tổng chiều dài khoảng 30 km. Trên địa bàn thành phố hiện nay có năm nhà ga, trong đó Ga Đà Nẵng là ga chính của thành phố. Cơ sở hạ tầng tại ga được đầu tư hiện đại; môi trường an ninh và vệ sinh được đảm bảo. Ngoài các chuyến tàu Bắc – Nam, còn có thêm những chuyến tàu địa phương đáp ứng lượng khách rất lớn giữa các tỉnh thành Đà Nẵng – Hà Nội, Đà Nẵng – Huế, Đà Nẵng – Quảng Bình, Đà Nẵng – Vinh, Đà Nẵng – Quy Nhơn, Đà Nẵng – Thành phố Hồ Chí Minh.
b) Đường thủy
Cảng Đà Nẵng là cảng biển lớn và hiện đại nhất Việt Nam. Có độ sâu trung bình từ 15 – 20 m, có khả năng tiếp nhận các tàu lớn có trọng tải đến 40.000 tấn. Năm 2018, sản lượng hàng hóa qua Cảng Đà Nẵng chính thức đạt mốc 8,5 triệu tấn, trong đó sản lượng container đạt gần 380.000 TEU, số lượt tàu đạt gần 1.850 lượt, trong đó tàu container gần 1.130 lượt.
Đón 95 lượt tàu du lịch với gần 188.000 hành khách và thuyền viên. Hiện tại, cảng Đà Nẵng mỗi tuần đón khoảng 26 tàu container cập cảng làm hàng. Các hãng container hàng đầu thế giới đều đã có mặt ở Cảng Đà Nẵng như Wanhai, Maersk Lines, Evergreen, MSC, SITC, Yangming…
c) Đường hàng không
Sân bay Quốc tế Đà Nẵng là một trong ba sân bay quốc tế lớn nhất Việt Nam (sau Nội Bài và Tân Sơn Nhất). Đường hàng không Đà Nẵng có thể nối trực tiếp với Singapore, Siêm Riệp, Bangkok, Đài Bắc, Quảng Châu, Thượng Hải, Bắc Kinh, Hồng Kông, Macau, Seoul, Busan, Tokyo, Osaka, Nagoya, Doha, Kuala Lumpur, Jakarta, Moskva, New Delhi, Phnompenh, Vientiane…
Từ khi được đầu tư xây mới 2 nhà ga nội địa và quốc tế vào năm 2010 và năm 2017, sân bay Quốc tế Đà Nẵng với 84 quầy thủ tục và các tiện nghi hiện đại khác đã đảm bảo phục vụ hơn 10 triệu lượt khách/năm và 15 triệu lượt khách/năm từ năm 2020 trở đi, tiếp nhận 400.000 – 1.000.000 tấn hàng/năm. Tính đến năm 2019, từ Đà Nẵng đã có 16 tuyến bay nội địa, 48 tuyến đường bay đi quốc tế trong đó có 23 đường bay trực tiếp thường kỳ và 25 đường bay trực tiếp thuê chuyến với công suất 15,5 triệu lượt khách.
11. Truyền thông
Có hơn 110 cơ quan báo chí trong đó có 8 đơn vị báo chí thành phố, 4 cơ quan báo chí trung ương đóng trên địa bàn thành phố và 98 văn phòng đại diện báo chí trung ương, hội, đoàn thể và địa phương khác có tòa soạn, đặt văn phòng đại diện hoặc cử phóng viên thường trú hoạt động tác nghiệp, với hơn 800 người làm báo, trong đó 400 nhà báo được cấp thẻ; mật độ nhà báo, phóng viên đứng đầu cả nước.
Các cơ quan báo chí của thành phố bao gồm: Báo Đà Nẵng, Đài Phát thanh – Truyền hình Đà Nẵng (với hai kênh DanangTV1 và DanangTV2), Báo Công an Đà Nẵng. Có 4 tạp chí là: Tạp chí Khoa học và Phát triển, Tạp chí Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng, Tạp chí Văn hóa và Du lịch, Tạp chí Non Nước và Tạp chí điện tử Thông tin và Truyền thông (ICT Đà Nẵng).
– Cơ quan đại diện báo chí trung ương ở Đà Nẵng có:
Trung tâm Truyền hình Việt Nam khu vực miền Trung – Tây Nguyên, Trụ sở chính và Tổng khống chế của kênh Truyền hình Quốc gia khu vực miền Trung – Tây Nguyên VTV8.
Cơ quan thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam khu vực Miền Trung.
Thông tấn xã Việt Nam khu vực miền Trung – Tây Nguyên.
Ước tính năm 2012, các nhà xuất bản phát hành khoảng 25,6 triệu cuốn sách và xuất bản phẩm; sản lượng in đạt 10 tỷ trang khổ 13×19 cm. Năm 2008, Nhà xuất bản bị đình chỉ hoạt động trong ba tháng nhưng phải đến sau gần sáu tháng, Nhà xuất bản mới được hoạt động trở lại. Năm 2010, Công viên Phần mềm Đà Nẵng đi vào hoạt động tòa nhà 21 tầng tại số 2 đường Quang Trung, quận Hải Châu với diện tích sàn 20.000 m2. Hiện nay, Công viên Phần mềm Đà Nẵng là một trong những khu công nghệ thông tin hoạt động hiệu quả nhất của cả nước, với tỷ lệ sử dụng đạt hơn 99% diện tích. Tính đến tháng 6/2017, Công viên Phần mềm Đà Nẵng có 75 doanh nghiệp đang hoạt động, thu hút vốn đầu tư hơn 1.520 tỷ đồng.
Kim ngạch xuất khẩu phần mềm năm 2018 ước đạt 78 triệu USD, doanh thu đạt 16.203 tỷ đồng, tập trung chủ yếu vào các thị trường Nhật Bản, Bắc Mỹ, Châu Âu…
Khu Công viên Phần mềm Đà Nẵng có quy mô 10.885,6 m², ra đời vào năm 2000, có chức năng tập trung các hoạt động nghiên cứu phát triển, đào tạo, sản xuất và kinh doanh sản phẩm, dịch vụ, cung cấp hạ tầng, cung ứng dịch vụ Công nghệ thông tin cho các tổ chức, doanh nghiệp. Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận Khu Công viên Phần mềm Đà Nẵng là Khu Công nghệ Thông tin Tập trung. Đà Nẵng cũng là nơi tuyến cáp quang biển Asia-Pacific Gateway (APG) cập bờ chạy qua các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam có khả năng cung cấp băng thông tới 54 Tbps.
Năm trong 26 thành phố quy hoạch Mạng lưới đô thị thông minh ASEAN. Các khu công viên phần mềm bao gồm:
Công viên phần mềm số 1 tại Đường Quang Trung, quận Hải Châu
Công viên phần mềm số 2 tại phường Thuận Phước, quận Hải Châu
Công viên phần mềm mở rộng tại phường Hoà Xuân, quận Cẩm Lệ
Khu công nghệ thông tin tập trung số 2 tại xã Hoà Ninh và Hoà Sơn, Hoà Vang
Danang IT Park (DITP) là khu công nghệ thông tin tập trung, theo mô hình của thung lũng Silicon Valley. Ngày 29/3/2019, chính quyền Đà Nẵng đã khánh thành giai đoạn 1 của dự án này với tổng số vốn đầu tư hơn 98 triệu USD. Dự kiến, DITP sẽ tuyển dựng hơn 25.000 kỹ sư công nghệ chất lượng cao và thu về 1,5 tỷ đô la mỗi năm. Ngày 6/1/2020, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 27/QĐ-TTg về việc thành lập Khu công nghệ thông tin (CNTT) tập trung Đà Nẵng – giai đoạn 1 do Công ty Cổ phần phát triển Khu công nghệ thông tin Đà Nẵng làm chủ đầu tư.
– Hotline
– Website:
– Thư điện tử
– Đài truyền hình
Đài phát thanh
Báo online: baodanang.vn, danangfantasticity.com
– Page Facebook: Cổng Thông tin Điện tử Thành phố Đà Nẵng
– Kết nghĩa với
Semarang, Indonesia
– Các trụ sở đối ngoại:
Tổng Lãnh sự quán Lào (Số 16, đường Trần Quý Cáp, quận Hải Châu).
Tổng Lãnh sự quán Nga (Số 22, đường Trần Phú, quận Hải Châu).
Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc.
Tổng lãnh sự quán Hàn Quốc (toà nhà True Friends Park)
Lãnh sự quán Tây Ban Nha (đường số 4, Khu Phúc Lộc Viên, 399 đường Ngô Quyền, quận Sơn Trà).
Lãnh sự quán Nhật Bản (Số 01-03, đường Đống Đa, quận Hải Châu)
Văn phòng cấp thị thực Bỉ, Đức, Ý
12. Du lịch
Ước tính tổng lượng khách đến tham quan, du lịch Đà Nẵng năm 2019 đón 8,98 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế đạt 3,52 triệu lượt, khách nội địa đạt 5,46 triệu lượt, tăng 22,5% so với năm 2018, tổng thu từ du lịch đạt hơn 30.971 tỷ đồng.
Thành phố Đà Nẵng hiện có 1.016 khách sạn, 42.206 phòng với sự có mặt của nhiều thương hiệu du lịch nổi tiếng thế giới như: Shilla, Novotel, Marriott, Hilton, Sheraton, Pullman, Mercure, Melia, Hyatt, Sofitel, Wyndham, Mikazuki…, trong đó khoảng trên 16.223 phòng lưu trú ven biển thuộc các khách sạn từ 4 đến 5 sao như Furama (198 phòng), Sheraton (258 phòng), Grand Tourane (188 phòng), Pullman(115 phòng), Hyatt (193 phòng)…chiếm 42,5% tổng số phòng toàn hệ thống (26 khách sạn hạng 5 sao và tương đương với 7.457 phòng). Đặc biệt, InterContinental Danang Sun Peninsula Resort liên tục mệnh danh “Khu nghỉ dưỡng sang trọng bậc nhất châu Á” kể từ năm 2014 đến nay.
Tính đến năm 2018, trên địa bàn thành phố có 358 đơn vị hoạt động trong lĩnh vực lữ hành, trong đó có 112 công ty lữ hành nội địa, 166 công ty lữ hành quốc tế, 47 chi nhánh lữ hành quốc tế với 22 văn phòng đại diện, 6 đại lý nước ngoài và 5 văn phòng lữ hành trong nước tại nước ngoài; có 45 đơn vị lữ hành khai thác thị trường khách Trung Quốc và 40 đơn vị khai thác khách Hàn Quốc. Đội ngũ hướng dẫn viên (HDV) du lịch có 4.274 người với 1.250 HDV trong nước và 3.024 HDV quốc tế (cụ thể là 1.485 HDV tiếng Anh; 888 HDV tiếng Trung; 156 HDV tiếng Hàn và 99 HDV tiếng Nhật…), có 730 xe đạt tiêu chuẩn phục vụ du lịch. Hiện Đà Nẵng có 83 dự án đầu tư vào lĩnh vực du lịch dịch vụ với tổng vốn đầu tư khoảng 7,3 tỷ USD (tương đương 153 ngàn tỷ đồng).
Năm 2016, Đà Nẵng lọt vào Top 10 điểm đến nghỉ dưỡng hàng đầu châu Á do độc giả Tạp chí Smart Travel Asia bình chọn.
Năm 2018, Đà Nẵng cũng đã lọt danh sách những điểm đến nên ghé thăm trước khi trở nên quá nổi tiếng trên trang Business Insider. Cùng năm, báo Nikkei Nhật Bản cũng có bài báo nhận định Đà Nẵng đứng thứ 5 toàn cầu và số 1 tại Đông Nam Á về thu hút khách du lịch, số liệu dựa theo bảng xếp hạng các điểm đến du lịch, của trang web đặt phòng nghỉ lớn nhất thế giới Airbnb. Hiện tượng Cầu Vàng đã trở thành tâm điểm trên các trang báo nổi tiếng trên thế giới.
Năm 2019, tờ báo uy tín hàng đầu của Mỹ – New York Times bình chọn Đà Nẵng được ngợi ca như “Miami của Việt Nam” đứng thứ 15 trong danh sách 52 điểm phải đến trên thế giới.
Nhà hát Trưng Vương được xây mới và khánh thành năm 2006 với sức chứa hơn 1.200 chỗ ngồi. Đây là nơi thường xuyên tổ chức biểu diễn các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống như tuồng, cải lương và nghệ thuật sân khấu hiện đại như: vũ kịch, múa ba lê, opera, nhạc giao hưởng,…các hội thảo, hội nghị và các sự kiện văn hóa lớn của thành phố.
Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, tiền thân là Đoàn tuồng Giải phóng Quảng Nam. Nhà hát mang tên nhà sáng tác, nghệ sĩ và người thầy Nguyễn Hiển Dĩnh, người có công lớn trong nghệ thuật tuồng Việt Nam. Nhà hát vẫn duy trì lịch biểu diễn vào thứ 4 và thứ 7 hàng tuần. Năm 2001, thành phố đã đầu tư 6 tỷ đồng để nâng cấp nhà hát.
Năm 2013 có năm bảo tàng bao gồm: Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Đà Nẵng, Bảo tàng Khu V, Bảo tàng Hồ Chí Minh (chi nhánh Quân khu V) và Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng. Trong số đó, Bảo tàng Điêu khắc Chăm có tiền thân là Bảo tàng Chàm được Trường Viễn Đông Bác Cổ cho xây dựng từ 1915 – 1916 đến năm 1936 mới hoàn tất. Bộ sưu tập nguyên thủy là do Nhà khảo cổ Henri Parmentier thu thập từ thế kỷ XIX. Không gian của tòa nhà bảo tàng gần 1.000 m² với 500 hiện vật được bố trí trưng bày trong các phòng chủ đề khác nhau. Bảo tàng Lịch sử thành phố Đà Nẵng được xây dựng trong khu vực Thành Điện Hải với mặt bằng trưng bày hơn 2.000 m². Thành phố cũng dự kiến xây dựng Bảo tàng Hải dương học.
Năm 2012, thành phố có 3/8 quận, huyện và 13/56 xã có thư viện, 22 tủ sách tại các thôn, tổ dân phố… Thư viện Khoa học Tổng hợp Đà Nẵng hiện có khoảng 180.000 bản sách/68.000 tên, trong đó đặc biệt có 3000 bản có giá trị cao nhưng đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng.
Rạp chiếu phim CGV Cinemas nằm trong tòa nhà Vĩnh Trung Plaza gồm 6 phòng chiếu và 854 ghế ngồi được khai trương từ ngày 3/7/2008. Vào ngày 30/6/2015, CGV Cinemas đã khai trương thêm một rạp chiếu phim tại Vincom Đà Nẵng. Ngoài ra còn có các rạp khác như Lotte Cinema Đà Nẵng nằm trên tầng 5 và 6 của khu trung tâm mua sắm Lotte Mart với bốn phòng chiếu riêng biệt; Galaxy Cinema nằm trong siêu thị Co.opmart; Starlight nằm ở tầng 4 của chợ Siêu thị Đà Nẵng. Rạp phim Lê Độ (rạp chiếu phim lâu đời nhất ở Đà Nẵng) và Cinema Fafilm. Vũ trường New Phương Đông nằm trên đường Đống Đa, quận Hải Châu.
Công viên Châu Á – Asia Park Đà Nẵng do Tập đoàn Sun Group làm chủ đầu tư có diện tích 868.694 m² bên bờ Tây sông Hàn mang tính biểu trưng của 10 quốc gia châu Á và khu Sun Wheel – nơi giao thoa giữa nét hiện đại và truyền thống, các công trình kiến trúc lịch sử và những hoạt động nghệ thuật, ẩm thực độc đáo của 10 quốc gia châu Á: Nhật Bản, Indonesia, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nepal, Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc và Việt Nam.
Công viên 29/3 nằm trên đường Điện Biên Phủ quận Thanh Khê. Năm 2010, khu công viên trên Bãi biển Phạm Văn Đồng được Hội đồng Nhân dân Thành phố ra nghị quyết đặt tên là “Công viên Biển Đông”. Đây còn được xem là “Công viên hòa bình” với đàn chim bồ câu hơn 1.000 con
Công viên Thanh niên nằm trên đường Xuân Thủy với diện tích 21 ha, thuộc địa bàn phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu và phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, trong đó có một hồ điều hòa rộng hơn 9 ha.
– Các làng nghề:
Làng cổ Phong Nam
Làng cổ Tuý Loan
Nổi tiếng nhất là Làng đá Mỹ nghệ Non Nước. Làng đá nằm dưới chân núi Ngũ Hành Sơn thuộc phường Hòa Hải – quận Ngũ Hành Sơn. Nghề chế tác đá ở đây được hình thành vào thế kỷ XVIII do một nghệ nhân đến từ Thanh Hóa tên là Huỳnh Bá Quát sáng lập.
Làng chiếu Cẩm Nê nằm cách trung tâm thành phố 14 km về phía tây nam thuộc xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang. Nơi đây từ lâu đã nổi tiếng với các loại chiếu hoa truyền thống. Nghề chiếu Cẩm Nê có nguồn gốc từ Hoằng Hóa, Thanh Hóa theo chân các cư dân người Việt đến cư trú ở vùng đất này vào thế kỷ XV. Chiếu hoa Cẩm Nê đã từng được hiện diện trong cung vua nhà Nguyễn; những nghệ nhân Cẩm Nê xưa cũng đã từng được các triều đại vua sắc phong, ban thưởng.
Làng nghề Nước mắm Nam Ô được hình thành vào đầu thế kỷ XX. Nam Ô là làng đánh cá nhỏ nằm ở cửa sông Cu Đê, nay thuộc phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu. Đặc trưng nhất của nước mắm Nam Ô là được chế biến từ cá cơm than, đánh bắt vào tháng ba âm lịch. Sau một thời gian bị mai một bởi nghề làm pháo (Làng pháo Nam Ô) thì vào năm 2006, Chính phủ Việt Nam đã hỗ trợ 12 tỷ đồng để phục hồi làng nghề.
a) Lễ hội
Lễ hội của ngư dân Đà Nẵng được gọi là lễ hội Cá Ông. “Ông” là tiếng gọi tôn kính của ngư dân dành riêng cho cá voi, loài cá thường giúp họ vượt qua tai nạn trên biển cả. Lễ tế cá Ông thường được lồng ghép dưới hình thức lễ hội cầu ngư và lễ ra quân đánh bắt vụ cá Nam. Tại Đà Nẵng, lễ hội được tổ chức trong hai ngày vào trung tuần tháng 3 âm lịch ở những vùng ven biển như Thọ Quang, Mân Thái, Thanh Lộc Đán, Xuân Hà, Hòa Hiệp… Ngoài các trò chơi dân gian còn có một hình thức múa hát đặc trưng diễn ra trong lễ hội là múa hát bả trạo.
Lễ hội Quán Thế Âm là lễ hội lớn nhất ở Đà Nẵng, được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1960. Sau một thời gian bị gián đoạn, lễ hội được khôi phục từ năm 1991, đến năm 2000 thì được công nhận là lễ hội cấp quốc gia và hiện là một trong 15 lễ hội lớn nhất cả nước. Lễ hội được tổ chức vào các ngày từ 17 – 19/2 âm lịch hàng năm tại Chùa Quán Thế Âm, nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn. Trong phần lễ, đặc sắc nhất là lễ rước tượng Quán Thế Âm.
Lễ hội Đình làng Hòa Mỹ (quận Liên Chiểu), Đình làng An Hải (huyện Hòa Vang), Đình làng Túy Loan (huyện Hòa Vang),… Lễ hội đua thuyền được tổ chức vào ngày quốc khánh 2/9 hàng năm trên sông Hàn.
Lễ hội Pháo hoa Quốc tế (tên tiếng Anh: Danang International Fireworks Festival, viết tắt: DIFF) được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2008, trước đây thường được tổ chức vào dịp lễ 30/ 4, nhưng nay Lễ hội này thường được tổ chức kéo dài trong 1 tháng (thông thường vào khoản thời gian tháng 6 hoặc tháng 7) để kết hợp cùng các hoạt động khác để tạo thêm nhiều điều thú vị, thu hút hàng nghìn người đến Đà Nẵng. Lễ hội pháo hoa năm 2013 đã có tới gần 400.000 lượt người đến thành phố.
Tháng 5/2012 lần đầu triển khai Cuộc thi Dù bay Quốc tế. Các sự kiện được diễn ra hàng năm như: Ironman 70.3, Danang International Marathon, Điểm hẹn mùa hè,… Tháng 6 là sự kiện “Điểm hẹn mùa hè” thường niên, quy tụ những hoạt động giải trí biển.
b) Di tích lịch sử
Đình Bồ Bản
Đình Hải Châu
Đình Nại Nam
Đình Tuý Loan
Bia chùa Long Thủ
Chùa Linh Ứng
Chùa Tam Thai
Di tích K20
Mộ Ông Ích Khiêm
Nhà thờ phái chư tộc Quá Giáng
Thành Điện Hải
c) Danh lam thắng cảnh
Đèo Hải Vân
Đỉnh bàn cờ
Ngọn hải đăng Thuận Phước, ngọn hải đăng Sơn Trà
Bán đảo Sơn Trà
Bãi biển Bắc Mỹ An
Bãi biển Nam Ô
Bãi biển Non Nước
Bãi biển Thanh Bình
Bãi biển Xuân Thiều
Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà
Ngũ Hành SơnKhu du lịch thác Hòa Phú Thành
Khu du lịch sinh thái suối Hoa
Khu du lịch sinh thái Ngầm Đôi
Khu du lịch sinh thái Lái Thiêu
Khu du lịch sinh thái Suối Lương
Phía bắc có đèo Hải Vân được mệnh danh là “Thiên hạ đệ nhất hùng quan“.
Phía tây có khu nghỉ dưỡng Sun World Bà Nà Hills nằm ở độ cao trên 1.400m với hệ thống 8 tuyến cáp treo có tổng công suất phục vụ 9.500 khách/giờ, tuyến cáp treo Thác Tóc Tiên – Indochine đạt bốn kỷ lục thế giới (Cáp treo một dây dài nhất thế giới: 5,771.61m; Độ chênh giữa ga đi và ga đến cao nhất thế giới: 1,368.93m; Chiều dài một sợi cáp không nối dài nhất thế giới: 11,587m; Độ nặng cuộn cáp nặng nhất thế giới: 141.24 tấn) cùng khu vui chơi giải trí trong nhà Fantasy Park lớn nhất Đông Nam Á và khu làng Pháp lớn nhất Việt Nam, mỗi ngày khu nghỉ dưỡng Sun World Bà Nà Hills phục vụ hơn 30.000 lượt khách, các ngày cao điểm lên tới hơn 40.000 lượt khách. Cầu Vàng (Golden Bridge) nổi tiếng
Phía đông có án đảo Sơn Trà với 400 ha rừng nguyên sinh gồm nhiều động thực vật phong phú.
Phía đông nam là danh thắng Ngũ Hành Sơn. Trên địa bàn thành phố còn có một hệ thống các đình, chùa, miếu theo kiến trúc Á Đông, các nhà thờ theo kiến trúc phương Tây như Nhà thờ Con Gà,…các bảo tàng mà tiêu biểu nhất là Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm. Ngoài ra thành phố còn được bao bọc bởi 3 Di sản Văn hóa Thế giới: Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Xa hơn một chút nữa là Vườn Quốc gia Bạch Mã, và Di sản Thiên nhiên Thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng. Vì thế Đà Nẵng được xem là điểm trung chuyển quan trọng trên Con đường Di sản miền Trung.
d) Ẩm thực
Gỏi cá Nam Ô gắn liền với tên làng biển Nam Ô. Cá để chế biến là cá mòi, cá tớp, cá cơm… nhưng ngon nhất là cá trích. Trước khi ướp, cá được ép lấy nước để làm ráo cá và lấy nước cốt này làm món nước chấm. Rau ăn kèm với gỏi cá Nam Ô rất đa dạng và chỉ mọc trên đèo Hải Vân như cóc rừng, tim lan, lành ngạnh, lá trâm, lá dừng… đã mang lại hương vị riêng cho món gỏi cá sống.
Bánh khô mè nổi tiếng trong đó người đi “tiên phong” là bà Huỳnh Thị Điểu (bà Liễu) ở Cẩm Lệ thuộc phường Khuê Trung, quận Hải Châu. Bánh khô mè được làm từ bột gạo, bột nếp, đường kính, gừng và mè. Bột gạo pha với bột nếp được cho vào khuôn, hấp cách thủy, nướng khô, “tắm” đường, “tắm” mè… Ruột bánh xốp giòn, đường dẻo, mè chín thơm, thường được người dân dâng cúng ông bà tổ tiên trong những ngày giỗ tết. Hiện nay bánh được sản xuất, tiêu thụ quanh năm cả trong và ngoài nước. Bên cạnh đó còn có bánh tráng Túy Loan. Theo phong tục của người dân Túy Loan cứ mỗi dịp lễ tết nhất là những ngày giỗ kỵ bánh tráng là món ăn không thể thiếu trên mâm cúng gia tiên.
Chả bò Đà Nẵng được làm hoàn toàn từ thịt bò và các gia vị như tiêu, tỏi…
Trà sâm dứa hoa lài Đà Nẵng.
Mì Quảng Đà Nẵng, Bánh xèo Đà Nẵng, Bánh tráng cuốn Thịt heo, thịt Bê thui, Bún chả cá, bún mắm, mít trộn, ốc hút, bò né…
Mực rim me Đà Nẵng
Mực khô Đà Nẵng
Mực xé ăn liền Đà Nẵng
Cá khô Đà Nẵng
Bò khô Đà Nẵng
Nai khô Đà Nẵng
Chả bò Đà Nẵng
Ghẹ sữa rim Đà Nẵng
Nước mắm Nam Ô Đà Nẵng
Mắm nêm, mắm ruốc Đà Nẵng
Rong biển Mỹ Khê
Tré bà Đệ Đà Nẵng
Bánh khô mè Đà Nẵng
Bánh dừa nướng Đà Nẵng
Kẹo đậu phộng Đà Nẵng
Trà sâm dứa Đà Nẵng
Đá Non NướcBánh tráng cuốn thịt heo
Hải sản
Bún chả cá
Bánh xèo
Bún mắm
Mì quảng
Ốc
Bánh canh
Bánh kẹp
13. Dân số và xã hội
– Dân số 1.134.310 người (năm 2019)
Mật độ: 828 người/km2
Theo kết quả điều tra ngày 1/4/1999, thành phố có 684.846 người. Trong đó dân số trong độ tuổi lao động xã hội toàn thành phố là 413.460 người, chiếm 57,7% dân số. Tính đến ngày 1/4/2019, dân số toàn thành phố Đà Nẵng đạt 1.134.310 người, xếp thứ 39 cả nước, chiếm 1,18% dân số cả nước, mật độ dân số đạt 740 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 988.569 người, chiếm 87,2% dân số toàn thành phố, dân số sống tại nông thôn đạt 145.741 người, chiếm 12,4% dân số.
Đà Nẵng có sô dân thành thị đứng thứ ba trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, đứng thứ 5 toàn quốc sau Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ngoài ra thành phố còn tiếp nhận thêm lượng dân cư từ các tỉnh, thành là sinh viên, công nhân lao động, nước ngoài… đến thành phố học tập và làm việc nên tỷ lệ dân nhập cư ngày càng tăng.
Dân số nam của thành phố đạt 558.982 người, trong khi đó nữ đạt 575.328 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương là 2,45%. Đà Nẵng cũng là địa phương có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất miền Trung – Tây Nguyên và cao nhất cả nước: 87,2%.
Dân số tăng trưởng ở mức từ 2,5% và 3% trong hầu hết các năm từ năm 2005 tới 2011, cao hơn trung bình toàn quốc là 1% đến 1,2%. Cá biệt tỷ lệ tăng trưởng đã tăng lên 3,6% trong năm 2010 trước khi trở lại 2,68% trong năm 2011. Đây là tốc độ tăng trưởng nhanh thứ ba trong cả nước sau Bình Dương (4,41%) và Đồng Nai (3,5%). Tỷ lệ tăng dân số của thành phố năm 2015 là 1,1%. Di cư là yếu tố chủ đạo trong tăng trưởng dân số của thành phố ít nhất là từ năm 2009.
Tăng trưởng dân số tự nhiên của thành phố cao hơn một chút so với mức trung bình của cả nước. Tuổi thọ trung bình đạt 77,4 tuổi đối với nữ và 72,4 hoặc 74,8 tuổi đối với nam. Trong tổng điều tra dân số năm 2009, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở mức 9,9 trẻ sơ sinh tử vong trên 1.000 trẻ. Đà Nẵng đã đạt mức sinh thay thế kể từ năm 2005. Trong tổng điều tra dân số năm 2019, Đà Nẵng có tổng tỷ suất sinh 1,88 con/phụ nữ, dưới mức sinh thay thế 2,1 con/phụ nữ.
– Dân tộc: Thành phố có trên 37 dân tộc và người nước ngoài cùng chung sống. Trong đó, nhiều nhất là dân tộc Kinh với 883.343 người, người Hoa đông thứ hai với 2.974 người, dân tộc Cơ Tu có 1.198 người, cùng các dân tộc ít người khác như dân tộc Tày với 224 người, Ê Đê với 222 người, Mường có 183 người, Gia Rai có 154 người… ít nhất là các dân tộc Chơ Ro, Hà Nhì, Si La và Ơ Đu chỉ có một người.
Tính đến ngày 1/4 năm 2019, trên địa bàn toàn thành phố có chín tôn giáo khác nhau, chiếm 77.029 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo với 42.690 người, xếp thứ hai là Phật giáo với 37.220 người, xếp thứ ba là đạo Tin Lành có 3.730 người, Cao Đài có 3.249 người, cùng các tôn giáo khác như Minh Sư Đạo với 53 người, Bahá’í với 34 người, Phật giáo Hòa Hảo với 25 người, Hồi giáo có 19 người, ít nhất là Bà La Môn chỉ với 9 người. Đà Nẵng là nơi có Hội thánh Tin Lành đầu tiên ở Việt Nam được thành lập vào năm 1911 bởi các giáo sĩ Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp (CMA).
14. Văn hóa
a) Tư tưởng học thuật
b) Văn học và sử học
c) Tôn giáo và tín ngưỡng
d) Nghệ thuật
15. Giáo dục
Hiện nay trên địa bàn thành phố có 175 trường học ở cấp phổ thông trong đó Trung học Phổ thông có 27 trường, Trung học Cơ sở có 60 trường, Tiểu học có 104 trường, 2 trường Phổ thông Cơ sở, bên cạnh đó còn có 136 trường Mẫu giáo với 1.249 lớp học, 2.422 giáo viên và 37,8 nghìn học sinh.
Có 1 trường Trung học Phổ thông chuyên Lê Quý Đôn Đà Nẵng. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông của thành phố năm học 2010 – 2011 là 96,7%.
Có 64 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó có: 20 trường cao đẳng, 6 trường trung cấp, 11 trung tâm giáo dục nghề nghiệp và 27 cơ sở khác có đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Quy mô tuyển sinh đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp hiện nay là 52.563 học sinh, sinh viên với 260 ngành nghề đào tạo ở các cấp trình độ đào tạo, trong đó, nhóm ngành/nghề thương mại dịch vụ chiếm khoảng 66%, nhóm ngành/nghề công nghiệp xây dựng chiếm khoảng 31% và nhóm ngành/nghề nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 3%.
Đà Nẵng có 19 trường Đại học, học viện; 05 Campus Trường Đại học Duy Tân; 02 Campus Trường Đại học FPT. Năm 2018, Đà Nẵng có hơn 180.000 sinh viên. Theo thống kê năm học 2016 – 2017 của Vụ Giáo dục Đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), Đà Nẵng có số lượng trường đại học lớn thứ ba với quy mô của giáo dục đại học chiếm 4,2% trên cả nước, chỉ sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường Đại học Kỹ thuật Y Dược tại Q. Hải Châu. Trường là một trong những cơ sở đào tạo chuyên ngành y học, dược học cho cả nước, là trường công lập thuộc hệ thống giáo dục Việt Nam.
Trường Đại học Bách khoa tại Q. Liên Chiểu. Trường là một trong các trường kỹ thuật đa ngành hàng đầu Việt Nam, một trong ba trường Đại học Bách khoa của cả nước cùng với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường Đại học Kinh tế tại Q. Ngũ Hành Sơn. Trường là một trong các trường chuyên đào tạo về kinh tế và thương mại hàng đầu Việt Nam cùng với Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Sư phạm tại Q. Liên Chiểu
Trường Đại học Ngoại ngữ tại Q. Hải Châu. Trường là một trong ba trường Đại học ngoại ngữ của Việt Nam cùng với Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và Trường Đại học Ngoại ngữ Huế
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật tại Q. Hải Châu
Trường Đại học Công nghệ thông tin hữu nghị Việt – Hàn tại Q. Ngũ Hành Sơn. Trường là một trong những cơ sở đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin, kinh tế số duy nhất khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, đáp ứng kịp thời Cách mạng Công nghiệp 4.0
Khoa Y Dược – Đại học Đà Nẵng tại Q. Ngũ Hành Sơn
Viện Nghiên cứu và Đào tạo Việt – Anh, Đại học Đà Nẵng tại Q. Hải Châu. Viện được thành lập dựa trên hợp tác của Chính phủ Việt Nam và Vương quốc Anh, là giai đoạn đầu của dự án thành lập Trường Đại học Quốc tế Việt – Anh thuộc Đại học Đà Nẵng.
Trường Đại học Thể dục Thể thao tại Q. Thanh Khê. Trường là một trong những cơ sở đào tạo chuyên ngành đội ngũ cán bộ thể dục, thể thao, một trong ba trường Đại học thể dục, thể thao của Việt Nam cùng với Trường Đại học Thể dục Thể thao Bắc Ninh và Trường Đại học Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh
Học viện Chính trị – Hành chính khu vực III tại Q. Sơn Trà.Trường chuyên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khu vực Miền Trung – Tây Nguyên
Phân viện Đại học Mở Hà Nội tại Q. Hải Châu
Phân viện Đại học Xây dựng Miền Trung tại Q. Liên Chiểu
Trường Đại học Kiến trúc tại Q. Hải Châu. Trường là một trong ba trường Đại học chuyên ngành về kiến trúc của Việt Nam.
Trường Đại học FPT tại Q. Liên Chiểu, Q. Ngũ Hành Sơn (Campus)
Trường Đại học Greenwich tại Q. Sơn Trà
Trường Đại học Duy Tân tại Q. Thanh Khê. Trường là trường đại học tư thục lớn nhất khu vực Miền Trung – Tây Nguyên
Trường Đại học Đông Á tại Q. Hải Châu
Trường Đại học Mỹ tại Việt Nam tại Q. Ngũ Hành Sơn
– Các trường Cao đẳng:
Trường Cao đẳng Giao thông Vận tải Trung ương V.
Trường Cao đẳng Kinh tế – Kế hoạch Đà Nẵng (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Trường Cao đẳng Lương thực Thực phẩm (thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn).
Trường Cao đẳng Thương mại Đà Nẵng (thuộc Bộ Công Thương).
Trường Cao đẳng Thương mại, Đà NẵngTrường Cao đẳng Nghề Du lịch Đà Nẵng (thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).
Trường Cao đẳng Nghề số 5 (thuộc Bộ Quốc phòng).
Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Đà Nẵng (thuộc Ủy ban Nhân dân Thành phố).
Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng (thuộc Ủy ban Nhân dân Thành phố).
Trường Cao đẳng Bách khoa Đà Nẵng.
Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh doanh Việt Tiến.
Trường Cao đẳng Dân lập Kinh tế Kỹ thuật Đông Du Đà Nẵng.
Trường Cao đẳng Lạc Việt.
Trường Cao đẳng Phương Đông Đà Nẵng.
Trường Cao đẳng Tư thục Đức Trí.
16. Y tế
Theo con số của Tổng cục Thống kê (Việt Nam) thì vào năm 2018, thành phố Đà Nẵng có 73 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế và Bộ Y tế, trong đó có 26 bệnh viện, 1 Bệnh viện Điều dưỡng, 1 Bệnh viện Chỉnh hình – Phục hồi chức năng và 56 trạm y tế. Tính đến đầu năm 2018, Đà Nẵng có tỷ lệ 17,49 bác sĩ/10.000 dân, 79,03 giường/10.000 dân, số giường bệnh trực thuộc Sở Y tế là 5.920 giường, thuộc các bệnh viện của Bộ ngành Trung ương là 1.510 giường và các Trung tâm Y tế quận/huyện là 1.410 giường, các cơ sở Y tế tư nhân là 943 giường. Cũng theo thống kê năm 2011, Đà Nẵng có 746 bác sĩ, 342 y sĩ, 756 y tá và 275 nữ hộ sinh. Theo số liệu thống kê thuộc Sở Y tế thành phố Đà Nẵng, năm 2017, toàn ngành Y tế thành phố Đà Nẵng đã thực hiện khám bệnh cho 3.739.982 lượt, điều trị nội trú cho 416.254 lượt bệnh nhân thuộc các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Gia Lai, Đắk Lắk, Quảng Trị,…
Tháng 3/2012, thành phố thành lập giải thưởng “Tỏa sáng blouse trắng” nhằm tuyên dương những cá nhân người tốt, việc tốt. Đến cuối năm 2012, Đà Nẵng đã hoàn thành mục tiêu Bảo hiểm y tế toàn dân, với 91,6% dân số tham gia Bảo hiểm y tế, đi trước 2 năm so với cả nước (2014).
Bệnh viện Đà Nẵng là bệnh viện đa khoa lớn nhất và là bệnh viện tuyến cuối hạng I của thành phố Đà Nẵng, có trách nhiệm thu dung – điều trị cho người dân khu vực 19 tỉnh miền Trung – Tây Nguyên. Bệnh viện có quy mô 1.900 giường (thực kê là 2.569 giường) (đường Hải Phòng, quận Hải Châu) tiền thân là “Nhà thương thí” – Bệnh viện bản xứ Tourane/ Hopital indigène de Tourane được người Pháp xây dựng và đưa vào hoạt động từ năm 1906 trên đường République nay là đường Hùng Vương, sau đó đổi tên thành Bệnh viện Đà Nẵng rồi thành Trung tâm Y tế toàn khoa Đà Nẵng (quy mô 1.000 giường) người dân địa phương quen gọi là Bệnh viện Giải phẫu. cũng từng là một trong những cơ sở thực hành của sinh viên của Đại học Y Khoa Huế trước năm 1975 và hiện nay bệnh viện có 9 khoa cận lâm sàng, 28 khoa cận lâm sàng và là cơ sở thực hành lâm sàng cho nhiều cơ sở giáo dục đại học cao đẳng trên địa bàn thành phố như: trường Đại học Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng, Khoa Y Dược – Đại học Đà Nẵng và các cơ sở đào tạo khác.
Thực hiện các ca cấy ghép tế bào gốc điều trị chấn thương tủy sống (nguyên nhân dẫn đến bại liệt) và là bệnh viện thứ hai tại Việt Nam sau Bệnh viện Việt Đức – Hà Nội thực hiện thành công, ghép thận, làm chủ kỹ thuật ECMO, thẩm tách siêu lọc máu, phòng mổ Hybrid (phòng mổ kỹ thuật hiện đại của các nước phát triển, tương đương kỹ thuật cùng với hai bệnh viện lớn nhất cả nước là Bệnh viện Chợ Rẫy – Hồ Chí Minh và Bệnh viện Bạch Mai – Hà Nội), kỹ thuật hạ thân nhiệt giúp giảm tỷ lệ tử vong, cấy điện cực ốc tai (giúp các bệnh nhân câm, điếc có thể nghe và nói),…
Năm 2017, bệnh viện đã khai trương Phòng giao dịch trực tuyến, giúp kết nối, chẩn bệnh giữa các bác sĩ bệnh viện với các bác sĩ quốc tế là hợp phần của dự án Q-health do chính phủ Hàn Quốc tài trợ, từ đó các y bác sĩ Đà Nẵng sẽ có điều kiện tương tác, trao đổi chuyên môn, tăng cường năng lực trong chẩn đoán, điều trị bằng phương tiện hội chẩn từ xa.
Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng: Là bệnh viện chuyên khoa hạng I về sản – nhi tuyến cuối và lớn nhất khu vực miền Trung – Tây Nguyên được thành lập tháng 4/2012 trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm Phụ sản – Nhi thuộc Bệnh viện Đà Nẵng có chức năng khám và điều trị phụ sản – nhi trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, chỉ tiêu 1.200 giường, thực kê 1.739 giường (công suất sử dụng 147%, vượt 289% so với chỉ tiêu 600 giường vào năm 2012).
Bệnh viện Ung Bướu Đà Nẵng tiền thân là Bệnh viện Ung thư Đà Nẵng thuộc Hội bảo trợ Phụ nữ và Trẻ em nghèo bất hạnh Đà Nẵng được khởi công tháng 3/2009 và khánh thành vào tháng 1/2013 do sự vận động cố Bí thư Thành ủy Nguyễn Bá Thanh trong việc đóng góp, tài trợ của các nhà hảo tâm, doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức phi chính phủ và sự quan tâm đầu tư của chính quyền thành phố. Tháng 8/2015, Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Khoa Ung bướu thuộc Bệnh viện Đà Nẵng và tiếp nhận nguyên trạng tổ chức bộ máy, người lao động, trụ sở, cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính, tài sản của Bệnh viện Ung thư Đà Nẵng. Hiện nay, bệnh viện đã trở thành bệnh viện công lập hạng I chuyên khoa về Ung bướu lớn nhất khu vực Miền Trung – Tây Nguyên quy mô chỉ tiêu 650 giường (thực kê 900 giường bệnh) (đường Phùng Hưng, quận Liên Chiểu) có 12 khoa lâm sàng và 8 khoa cận lâm sàng, trang thiết bị, máy móc hiện đại xứng tầm một bệnh viện chuyên khoa Ung bướu tại Việt Nam.
Từ khi thành lập đến nay, bệnh viện đã triển khai nhiều kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị, trong đó có một số kỹ thuật lần đầu tiên được triển khai như phẫu thuật đầu mặt cổ kết hợp phẫu thuật vi phẫu tạo hình, tạo hình thẩm mỹ trong phẫu thuật ung thư vú, kỹ thuật xạ trị áp sát vùng đầu cổ, kỹ thuật sinh thiết định vị, kỹ thuật phẫu thuật nội soi cắt gan trái cho bệnh nhân ung thư gan… Từ tháng 12/2016, bệnh viện đã trở thành bệnh viện vệ tinh của Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều bác sĩ, nhân viên y tế tại bệnh viện đã tham gia chương trình đào tạo theo kế hoạch bệnh viện vệ tinh và đã được các bác sĩ bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh chuyển giao nhiều kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị bệnh nhân ung bướu và và hậu phẫu thuật.
Bệnh viện C Đà Nẵng tiền thân là Bệnh viện Việt Đức Đà Nẵng. Bệnh viện Việt Đức Đà Nẵng được khởi công xây dựng năm 1968 và hoàn thành vào đầu năm 1972, với sự hỗ trợ cả về tài chính và chuyên môn của Tổ chức Malteser Hilfsdienst và tàu bệnh viện Helgoland. Đầu tháng 4/1975, một đơn vị y tế của Khu V được hợp nhất từ Ban Dân y Khu, Bệnh viện 1 và Bệnh viện 2 của Khu ủy đã tiếp quản Bệnh viện Việt Đức và đổi tên thành Bệnh viện C Đà Nẵng. Hiện nay, bệnh viện có quy mô 1.400 giường (đường Hải Phòng, quận Hải Châu) là 1 trong 3 bệnh viện có nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho nhân dân, cán bộ trung – cao cấp của Đảng và Nhà nước cùng với Bệnh viện Thống Nhất ở miền Nam, Bệnh viện Hữu Nghị ở miền Bắc.
Bệnh viện Quân y 17 (đường Nguyễn Hữu Thọ, quận Hải Châu) tiền thân của Bệnh viện Quân y 17 là Tổng Y viện Duy Tân, được xây dựng gần Sân bay Đà Nẵng từ năm 1955 và được Cục Hậu cần Quân khu V tiếp quản vào đầu tháng 4 năm 1975. Tổng Y viện Duy Tân là đơn vị quân y đứng hàng thứ hai của quân đội Sài Gòn chỉ sau Tổng Y viện Cộng Hòa.
Bệnh viện Y học Cổ truyền (đường Trần Thủ Độ, quận Cẩm Lệ) tiền thân Dưỡng đường Thánh Phaolồ được xây dựng vào nửa sau thập niên 1960
Bệnh viện Hải Châu (đường Cao Thắng, quận Hải Châu) tiền thân Dưỡng đường bảo sanh Terésa được xây dựng năm 1967.
Bệnh viện Da Liễu: quy mô 100 giường (đường Dũng sĩ Thanh Khê, quận Thanh Khê)
Bệnh viện Mắt Đà Nẵng (đường Phan Đăng Lưu, quận Hải Châu)
Bệnh viện Răng Hàm Mặt (đường Hùng Vương, quận Hải Châu)
Bệnh viện Phổi (đường Nguyễn Huy Tưởng, quận Liên Chiểu)
Bệnh viện Giao thông vận tải Đà Nẵng (đường Hoàng Văn Thái, quận Liên Chiểu)Bệnh viện 199 – Bộ Công an: Là bệnh viện đa khoa hạng I trực thuộc Bộ Công an với 25 khoa, phòng và 450 giường bệnh điều trị nội trú. Bệnh viện được xây dựng với nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ công an các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên và tham gia y tế cộng đồng theo quy định của Nhà nước. (đường Nguyễn Công Trứ, quận Sơn Trà)
Bệnh viện Tâm thần (đường Nguyễn Lương Bằng, quận Liên Chiểu)
Bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi Chức năng – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (đường Quang Trung, quận Hải Châu)
Bệnh viện Điều dưỡng – Phục hồi chức năng (đường Võ Nguyên Giáp, quận Ngũ Hành Sơn)
Bệnh viện Phụ nữ (đường Chu Văn An, quận Hải Châu)
Bệnh viện Hoàn Mỹ Đà Nẵng: quy mô chỉ tiêu gần 400 giường bệnh nội trú (đường Nguyễn Văn Linh, quận Hải Châu)
Bệnh viện Đa khoa Vĩnh Toàn (đường Lê Duẩn, quận Hải Châu)
Bệnh viện Đa khoa Bình Dân (đường Trần Cao Vân, quận Thanh Khê)
Bệnh viện Đa khoa Tâm Trí Đà Nẵng (đường Cách Mạng Tháng Tám, quận Cẩm Lệ)
Bệnh viện Đa khoa Tâm Trí Đà NẵngBệnh viện Gia đình Đà Nẵng (đường Nguyễn Hữu Thọ, quận Hải Châu)
Bệnh viện Đa Khoa Quốc tế VINMEC: Là bệnh viện theo tiêu chuẩn quốc tế và hiện đại với quy mô 250 giường (đường 30 Tháng 4, quận Hải Châu)
Bệnh viện Ngoại khoa Nguyễn Văn Thái
Bệnh viện Thiện Nhân – Trung tâm chẩn đoán y khoa kỹ thuật cao (đường Đống Đa, quận Hải Châu)
Bệnh viện Phục hồi Chức năng (đường Trần Văn Trà, quận Cẩm Lệ)
17. Thể thao
Trung tâm Huấn luyện Thể thao Quốc gia III,
Trung tâm Thể thao Quốc phòng III
Trường Đại học Thể dục Thể thao Đà Nẵng.
Cung Thể thao Tiên Sơn
Câu lạc bộ Bơi lặn,
Câu lạc bộ Đua thuyền Đồng Nghệ,
Trung tâm Thể dục Thể thao Người cao tuổi,
Nhà tập luyện taekwondo
Làng Vận động viên và Khu Tập luyện Bóng đá rộng gần 8 ha, hay Khu Thể thao Thành tích Cao rộng 7 ha, nằm ở Khu Đô thị mới Tuyên Sơn – Hòa Cường.
Từ năm 2000 – 2010, tại các giải quốc gia, các vận động viên của thành phố đạt được tổng cộng 3.596 huy chương, trong đó có 1.026 Huy chương Vàng, 1.158 Huy chương Bạc và 1.402 Huy chương Đồng. Tại các giải khu vực và quốc tế, vận động của thành phố đạt được tổng cộng 182 huy chương, trong đó có 90 Vàng, 47 Bạc và 45 Đồng. Nếu như tại Đại hội Thể dục Thể thao lần thứ III năm 1995, Đoàn Đà Nẵng xếp ở vị trí 28/52 thì ở Đại hội lần thứ VI năm 2010, thành phố đã ở vị trí 4/66. Có những vận động viên xuất sắc và hàng đầu ở một số môn như Vận động viên Karatedo Vũ Kim Anh (gốc Hải Phòng) và Vận động viên Bơi lội Hoàng Quý Phước.
Câu lạc bộ Bóng đá Đà Nẵng có tiền thân là đội bóng đá Công nhân Quảng Nam – Đà Nẵng rồi Đội Bóng đá Quảng Nam – Đà Nẵng. Vào cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, Quảng Nam – Đà Nẵng là một câu lạc bộ mạnh, đỉnh cao là khi vươn tới chức vô địch quốc gia năm 1992 cùng ba lần giành ngôi á quân vào các năm 1987, 1990 và 1991. Đến trước mùa giải 2008, Câu lạc bộ Bóng đá Đà Nẵng đổi tên thành SHB Đà Nẵng sau khi Sở Thể dục Thể thao Thành phố Đà Nẵng chuyển giao đội bóng cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội. Kể từ thời điểm này, đội bóng giành được 2 chức vô địch V-league các năm 2009, 2012; 1 chức vô địch Cúp Quốc gia năm 2009; 1 Siêu cúp QG năm 2012 cùng 1 lần Á quân và 2 lần hạng ba. SHB Đà Nẵng từng sở hữu Sân vận động Chi Lăng với sức chứa 30.000 người và được xem là một trong những sân vận động lớn nhất Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay toàn bộ khu đất rộng 5,5 ha trong đó có Sân vận động Chi Lăng đang bị bỏ hoang một cách lãng phí.
Thành phố đầu tiên của Việt Nam tổ chức thành công Đại hội Thể thao Bãi biển châu Á 2016
18. Danh nhân
– Chính trị
Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Phan Diễn (1937)
Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh (1953-2015)
Bộ trưởng Bộ GTVT Hồ Nghĩa Dũng (1950)
Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Trương Quang Nghĩa (1958)
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam Nguyễn Ngọc Quang (1958)
Bí thư Tỉnh ủy Lâm ĐồngTrần Đức Quận (1967)
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Dương Anh Đức (1968)
– Quân sự
Danh tường Thoại Ngọc Hầu (1761-1829)
Danh tướng Trần Quang Diệu (1760-1802)
Danh nhân ái quốc Ông Ích Đường (1884-1908)
– Thể thao
Vận động viên bơi lội Hoàng Quý Phước (1993)
Cầu thủ, vận động viên bóng đá Phan Thanh Hùng (1960)
Cầu thủ Huỳnh Quốc Anh (1985)
– Văn hóa
Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa (1896 – 1982)
Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu (1924 – 2015)
Nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ (1948 – 1988)
Ca sỹ Kasim Hoàng Vũ (1979)
Ca sĩ Mỹ Tâm (Phan Thị Mỹ Tâm, 1981)
Ca sĩ Nam Cường (Nguyễn Nam Cường, 1985)
Ca nhạc sỹ Lê Cát Trọng Lý (1987)
Ca nhạc sỹ Only C (Nguyễn Phúc Thạch, 1988)
Ca sỹ Lê Hoàng
Người mẫu Thanh Hằng (Phạm Thị Thanh Hằng)
Diễn viên Trang Cherry (Hoàng Thị Thu Trang)
Diễn viên Trương Thế Vinh
Nhà thiết kế thời trang Nguyễn Công Trí
– Hoa hậu
Hoa hậu Việt Nam 2008 Trần Thị Thùy Dung
Hoa khôi Áo dài Việt Nam năm 2016 Trương Thị Diệu Ngọc
Á hậu 2 Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam năm 2015 Đặng Thị Lệ Hằng
19. Mệnh danh và tôn vinh
Thành phố đáng sống nhất Việt Nam
Năm 2008 lọt top 10 địa điểm tốt nhất để sống ở nước ngoài do Tạp chí Du lịch Live and Invest Overseas (LIO) bình chọn
20. Tham khảo
– Internet
– Ấn phẩm