Bùi Văn Khuê (1546 – 1600)
1. Thông tin
– Tên gọi: Bùi Văn Khuê (裴文奎)
– Sinh năm 1546 (Bính Ngọ) tại làng Chi Phong, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, Ninh Bình, Đại Việt (nay là huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam)
Mất năm 1600 (Canh Tý) (54 tuổi) tại Đại Việt (nay là Việt Nam)
– Giới tính: Nam
– Quốc tịch: Đại Việt
Dân tộc: Kinh
– Là chính trị gia thời Mạc – Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.
2. Hôn nhân và gia đình
– Quan hệ gia đình với vợ là Nguyễn Thị Niên
– Có 2 người con trai:
Con trai: Bùi Văn Nguyên, Bùi Thì Trung, Bùi Khắc Kiệm
3. Cuộc đời và sự nghiệp
Con thứ ? trong gia đình ? anh em (Bùi Văn Khuê)
Tướng Nguyễn Quyện tiến cử, ông được vua Mạc Mậu Hợp giao chức Sơn quận công trấn thủ Nam đạo sơn làm võ quan nắm thủy quân, lực lượng chủ lực rất mạnh của nhà Mạc.
Năm 1592 (Nhâm Thìn) tướng Nam triều là Trịnh Tùng mang đại quân ra bắc tấn công Thăng Long. Mạc Mậu Hợp cũng huy động đại quân ra địch, bị bại trận vào ngày giáp tết, phải bỏ kinh thành chạy qua sông Hồng. Ngay sau đó, vua tôi nhà Mạc cố gắng tổ chức lại quân đội để chống trả.
Ngày 6/1 AL Trịnh Tùng đốc quân qua sông Tô Lịch đến cầu Nhân Mục, đóng quân ở núi Xạ Đôi dàn binh bố trận. Mạc Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn đem quân bản đạo cố thủ từ cửa Bảo Khánh về phía tây đến phường Nhật Chiêu; Bùi Văn Khuê cùng Trần Bách Niên đem quân bốn vệ giữ cửa Cầu Dừa, qua cửa Cầu Muống đến thẳng cửa Cầu Dền, ngày đêm đóng cửa cố thủ trong thành Đại La; cha vợ ông là Nguyễn Quyện đem quân giữ từ Mạc Xá trở về đông, ứng cứu quân các đạo. Mạc Mậu Hợp tự đốc suất thuỷ quân, dàn hơn 100 chiếc thuyền giữ sông Nhị Hà để làm thanh viện. Tuy nhiên, cánh quân chủ lực của Mạc Mậu Hợp và Nguyễn Quyện bị quân Nam triều đánh bại, bản thân lão tướng Nguyễn Quyện bị bắt. Trước tình hình đó, Bùi Văn Khuê cùng Trần Bách Niên, Mạc Mậu Hợp, Mạc Ngọc Liễn đều bỏ chạy. Mạc Mậu Hợp thua trận rút khỏi Thăng Long, nhưng Trịnh Tùng cũng thấy chưa đủ khả năng đánh chiếm miền Bắc nên lại rút về Thanh Hóa.
Có sông Hồng ngăn trở, quân Nam triều chưa qua sông được. Mạc Mậu Hợp lại không lo phòng giữ, sa vào tửu sắc. Vợ Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên thường ra vào trong cung thăm chị gái là hoàng hậu Nguyễn Thị Thể. Mậu Hợp thấy Nguyễn Thị Niên đẹp, liền ngầm mưu dụ giết Bùi Văn Khuê để cướp lấy vợ ông. Bùi Văn Khuê biết chuyện, bèn mang quân bản bộ tự rút về Gia Viễn không theo vua Mạc.
Tháng 10 đem quân bản bộ chiếm cứ huyện Gia Viễn, sai con là Bùi Văn Nguyên chạy vào Thanh Hóa xin hàng nhà Lê. Trịnh Tùng nghe tin, bèn sai tướng Hoàng Đình Ái cầm một cánh quân đi trước đến làng Bái và làng Đình ứng cứu. Đình Ái sai Văn Khuê tiến quân đóng giữ bến đò Đàm Giang. Quân Mạc bèn lui giữ sông Thiên Phái. Ngày 28 (AL) Trịnh Tùng mang quân ra phủ Trường Yên, tiếp đãi và phong tước quận công và sai cầm quân đánh họ Mạc. Quân Lê – Trịnh đến núi Kẽm Trống đóng trại, Tùng sai Văn Khuê lén dời binh thuyền ra cửa sông, rồi trên và dưới cùng đánh kẹp lại: Quân Mạc tan vỡ, tướng Trần Bách Niên đầu hàng.
Mạc Mậu Hợp sai Nghĩa quốc công ra đóng quân ở sông Thiên Phái, đắp luỹ đất ở bờ sông chống cự, thả chông tre hai bên bờ sông. Trịnh Tùng sai Bùi Văn Khuê ngầm kéo theo thuyền ra cửa sông để đánh ở thượng lưu, sai bắn súng ở ven sông để đánh ở hạ lưu; sai voi ngựa, quân lính qua sông đánh mạnh vào trung lưu để thu lấy thuyền quân Mạc trên sông. Nghĩa quốc công trở tay không kịp, bỏ thuyền chạy trốn, quân lính tan vỡ tháo chạy. Không lâu sau, Mạc Mậu Hợp bị Trịnh Tùng đánh bại hoàn toàn, bị bắt và bị giết. Trịnh Tùng rước vua Lê Thế Tông ra Thăng Long. Lúc đó họ Mạc còn chiếm giữ nhiều nơi ở Bắc Bộ để tính việc khôi phục lại.
Năm 1593, Bùi Văn Khuê cùng các tướng nhà Mạc cũ là Nguyễn Thất Lý, Trần Bách Niên, Nguyễn Nga đi đánh Mạc Kính Chỉ – lực lượng tông thất nhà Mạc chưa quy phục. Kết quả bị thua trận, Thất Lý bị tử trận, Nguyễn Nga bị thương ngã xuống thuyền, còn Bùi Văn Khuê, Bách Niên đều tan vỡ tháo chạy. Hải Dương, Kinh Bắc lại theo Mạc Kính Chỉ. Không lâu sau, Trịnh Tùng cùng các tướng Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu mang quân đi dẹp được Kính Chỉ. Tuy nhiên, nhiều nơi ở Bắc Bộ vẫn theo các tông thất họ Mạc
Tháng 11/1596, Phạm Hàng chiếm giữ núi Đam Khê, huyện Yên Mô, có tới hơn 1 vạn quân. Mỹ quận công Bùi Văn Khuê cùng với viên thổ quan Yên Mô là Lương quận công Nguyễn Thể đi đánh bắt được Phạm Hàng giải về kinh chém.
Tháng 11/1597, Bùi Văn Khuê cùng Nguyễn Miện, Phan Ngạn đem thủy quân gồm 50 chiếc thuyền ra Hải Dương đánh phá đảng ngụy. Nguyễn Miện khinh địch bị Lễ quận công của địch giết. Sau Văn Khuê lấy được đầu của Lễ quận công đem về kinh dâng nộp, sai đem bêu 3 ngày.
Tháng 4/1598, Thái uý Nguyễn Hoàng thống lĩnh thuỷ quân cùng bọn Thiếu bảo Bùi Văn Khuê ra đánh dẹp xứ Hải Dương rồi tiến quân đánh vào phía nam huyện Thuỷ Đường. Nguyễn Hoàng sai tướng sĩ bản dinh xông trước vào phá lũng núi huyện Thuỷ Đường bắt được Thuỷ quận công nguỵ. Bọn Quỳnh Quận công, Thụy Quận công đem con em trốn ra, định chạy về huyện Tiên Minh. Đến nửa đường, gặp quân của Bùi Văn Khuê đánh tới; quân hai bên hỗn chiến trên sông, Văn Khuê bắt được Thuỵ Quận công nguỵ ở trong thuyền, chém hơn trăm thủ cấp, Quỳnh Quận công nguỵ đem dư đảng chạy về Yên Quảng.
Tháng 5 Bùi Văn Khuê được lệnh đi đánh tàn quân Mạc ở hai huyện Tân Minh và An Dương. Ông dẹp yên được 2 huyện.
Năm 1600 (Canh Tý) cậu ruột Trịnh Tùng là Nguyễn Hoàng (giữ chứ trấn thủ Thuận – Quảng), sợ bị Trịnh Tùng thanh trừng không cho về Nam, bèn lập mưu xúi Bùi Văn Khuê cùng các tướng cũ của nhà Mạc là Phan Ngạn và Ngô Đình Nga dấy binh làm phản để mình có cớ đi dẹp mà bỏ trốn về nam. Bùi Văn Khuê cùng Phan Ngạn và Ngô Đình Nga bèn dấy binh phản lại nhà Lê, trở lại giúp họ Mạc. Nguyễn Hoàng xin được đi dẹp, liền mang quân đến bờ biển, đốt hết doanh trại rồi trốn về Thuận Hoá. Bùi Văn Khuê cùng Phan Ngạn, Ngô Đình Nga đem quân phụ trợ theo họ Mạc, chiêu an các thành thị. Nhưng chỉ được ít lâu, Phan Ngạn nghi ngờ Bùi Văn Khuê có mưu khác, liền sai người bắn chết Văn Khuê ở giữa sông.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục dẫn một thuyết: Ngạn nghe biết Thị Niên sắc đẹp, sai người đi lại cùng thông tin ước hẹn kết duyên. Nguyễn Thị giả vờ nhận lời, bèn kén hơn mười người trẻ tuổi đẹp trai, ăn mặc giả làm con gái sung vào làm thị tỳ. Nguyễn Thị giao ước với bọn thị tỳ giả nếu ai giết được Phan Ngạn thì sẽ được trọng thưởng. Muốn để Ngạn khỏi nghi ngờ, Nguyễn Thị Niên hẹn: đêm hôm nào đó thị sẽ đi một chiếc thuyền lớn đến hội kiến. Ngạn hí hởn mừng. Đến kỳ hạn, Nguyễn Thị ăn mặc lộng lẫy, đi thuyền ngược dòng sông Hoàng Giang ra sông Nha Giang, Ngạn cho người thăm dò, thấy trong thuyền la liệt những gái đẹp, Ngạn yên tâm không nghi ngờ gì cả, bèn ra ám hiệu cho thuyền tuần tiễu nơi đi nhanh, khi thuyền tuần tiễu sắp đến gần chỗ thuyền Nguyễn Thị thì dừng chèo ở giữa dòng sông. Điều khiển đâu vào đấy rồi, Ngạn mừng rỡ cuống quýt, cũng dùng một chiếc thuyền lớn đến để cùng Nguyễn Thị hội hợp. Sau khi Ngạn đã sang thuyền Nguyễn Thị, liền vẫy cho thuyền mình rút lui. Lúc ấy thị tỳ đứng hai hàng rót rượu. Khi cuộc rượu đang nồng nàn, thị tỳ rút dao ở trong tay áo ra chặt lấy đầu Phan Ngạn, rồi nhân đêm nước thủy trào xuống, gió thổi mạnh quay chèo trở về như bay, quân lính của Ngạn vẫn chưa biết có chuyện ấy. Khi về, Nguyễn Thị đem đầu của Ngạn làm lễ tế ở bàn thờ chồng, rồi dặn hai con đến hành tại An Trường (Thanh Hóa) quy thuận với vua Lê. Còn thị thì tự gieo mình xuống sông.
Một truyền thuyết ở đền Vực Vông kể rằng: Bùi Văn Khuê cùng Phan Ngạn đều là bộ tướng của Nguyễn Quyện và đều mang lòng yêu bà Nguyễn Thị Niên. Nhờ tài năng chinh phục được vực xoáy ở Vực Vông, cho người kê đá xoay lại dòng chảy thì không còn vực xoáy nữa, Bùi Văn Khuê được Nguyễn Quyện gả Nguyễn Thị Niên cho. Phan Ngạn căm tức vì không lấy được Nguyễn Thị Niên, bèn vu cáo Nguyễn Quyện khiến Nguyễn Quyện bị mất chức và chính Phan Ngạn được lên thay. Sau đó Ngạn sai người ám sát Bùi Văn Khuê để mưu chiếm Nguyễn Thị Niên. Để trả thù, Nguyễn Thị Niên cũng giả cách nhận lời lấy Phan Ngạn và dụ Phan Ngạn lên thuyền giữa sông Hoàng Long rồi giết Ngạn. Bà sai chặt đầu Phan Ngạn đem tế chồng. Sau đó, bà nhảy xuống sông tuẫn tiết. Thi hài bà trôi dạt vào vực Vông. Thương tiếc và biết ơn bà, nhân dân địa phương đã lập đền thờ bà ngay cạnh đó và gọi là đền Vực Vông tại quần thể di tích cố đô Hoa Lư thuộc thôn Chi Phong, Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.
4. Giải thưởng và tôn vinh
Đền thờ Vực Vông thờ 2 vợ chồng Bùi Văn Khuê và Nguyễn Thị Niên. Trong đền còn lưu giữ 17 đạo sắc phong cho Mỹ quận công Bùi Văn Khuê và hai đạo sắc phong cho bà Nguyễn Thị Niên. Thần tích đền Vực Vông cho rằng cha con Bùi Văn Khuê có nhiều công lao tu sửa cố đô Hoa Lư.
5. Tham khảo
– Internet
– Ấn phẩm
Đại Việt sử ký toàn thư