Ngô Quyền (898 – 944)
1. Thông tin
– Tên gọi: Ngô Quyền (吳權)
Tự xưng: Tiền Ngô Vương (前吳王)
Thuỵ hiệu: Ngô Thuận Đế
– Sinh ngày 17/4/898 (tức 12/3/Đinh Tỵ) tại Đường Lâm, Tĩnh Hải quân (nay là Đường Lâm, Tx. Sơn Tây, Tp. Hà Nội, Việt Nam)
Mất ngày 14/2/944 (tức 18/1/Giáp Thìn) (47 tuổi) tại Cổ Loa, Tĩnh Hải quân (nay là huyện Đông Anh, Tp. Hà Nội, Việt Nam)
– Giới tính: Nam
– Quốc tịch: Tĩnh Hải quân
Dân tộc: Kinh
– Là chính trị gia thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam.

2. Hôn nhân và gia đình
a) Thân thế
Đời ?
– Ông nội là Ngô Đình Thực
– Bố là Ngô Đình Mân và mẹ là Phùng Thị Tịnh Phong
Bố nuôi Dương Đình Nghệ
Con cả trong gia đình 2 anh em (Ngô Quyền, Ngô Tịnh)
b) Hôn nhân và con cái
– Quan hệ gia đình với vợ là Dương Thị Như Ngọc, Đỗ phi và Dương Phương Lan
– Có 4 người con trai: Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn, Ngô Cần Hưng, Ngô Nam Hưng
c) Hậu duệ
– Cháu nội: Ngô Xương Xý, Ngô Xương Tỷ, Ngô Nhật Chung
3. Con người và tính cách
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư: Ngô Quyền vừa mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, dung mạo khác thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền lớn lên, khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc bằng đồng.
Theo Trần Trọng Kim chép trong Việt Nam sử lược: Ngô Quyền trong thì giết được nghịch thần, báo thù cho chủ, ngoài thì phá được cường địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung nghĩa lưu danh thiên cổ, mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn một nghìn năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần về sau này được tự chủ ở cõi Nam vậy.
Dáng người như cọp, tiếng nói như sấm, mắt sáng như chớp.
4. Cuộc đời và sự nghiệp
Năm 898 (Mậu Ngọ)
Bắc thuộc – Càn Ninh 5
Họ Phùng – Phùng Hưng
Theo dã sử và truyền tụng trong dân gian, năm 20 tuổi, Ngô Quyền có một người vợ đầu tên là Dương Phương Lan, người làng Yên Nhân thuộc miền Thượng Phúc (nay là thôn Yên Nhân, xã Hòa Chính, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội). Khi Ngô Quyền tìm về dưới trướng hào trưởng Dương Đình Nghệ, đã dẫn theo vợ.
Làm con nuôi của hào trưởng Dương Đình Nghệ người Ái Châu (thuộc Thanh Hóa ngày nay).
[Dương Đình Nghệ với mưu đồ khôi phục nước nhà, mong thoát khỏi ách đô hộ của nhà Đường]
Được bố nuôi phong làm Nha tướng
Được cha nuôi gả con gái cả là Dương Thị Như Ngọc và giao quyền cai quản Ái châu, đất bản bộ của họ Dương.
Năm 931, Dương Đình Nghệ phát binh từ Thanh Hóa ra Bắc đánh đuổi quân Nam Hán, đánh bại Lý Tiến và quân cứu viện do Trần Bảo chỉ huy, chiếm giữ bờ cõi nước Việt, xưng là Tiết độ sứ.
Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng trong thời kì Tự chủ. Nhưng Công Tiễn lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán.
Ngô Quyền được tin về việc phản nghịch của Công Tiễn và thấy Công Tiễn quy phục Nam Hán là nguy hại cho cuộc tự chủ mà họ Khúc và Dương Đình Nghệ cố gắng xây nền móng, nên nhanh chóng tập hợp lực lượng, phát binh từ Ái châu ra đánh Kiều Công Tiễn kéo quân ra Bắc. Kiều Công Tiễn sai sứ sang đút lót để cầu cứu với nhà Nam Hán.
Sách An Nam chí lược viết rằng: Công Tiễn bị Ngô Quyền vây, sức yếu bị thua mới cầu cứu nhà Nam Hán
Vua Nam Hán là Lưu Cung nhân Giao Chỉ có loạn muốn chiếm lấy. Lưu Cung phong cho con mình là Vạn vương Lưu Hoằng Tháo làm Giao Vương, đem quân cứu Kiều Công Tiễn.
Năm 938 mùa thu, thời tiết mưa dầm gió bấc, đoàn quân Ngô Quyền vượt đèo Ba Dội tiến ra Bắc, khi quân Nam Hán chưa kịp sang, Ngô Quyền đã giết được Kiều Công Tiễn đem bêu ở ngoài cửa thành Đại La
Lưu Cung tự làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện. Lưu Cung hỏi kế ở Sùng Văn sứ là Tiêu Ích, Tiêu Ích nói: Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến.
Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng: Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát.
Trong bản Ngọc phả về Tiền Ngô Vương Thiên tử xã Lương Xâm (nay thuộc phường Nam Hải, quận Hải An, TP Hải Phòng) có đoạn cho biết: Khi Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo với các tướng rằng:
– Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, mang quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe tin Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, chí khí đã bị mất rồi. Ta lấy sức còn khỏe để địch với sức đang yếu, tất sẽ phá được địch.
Nói đến đây bỗng ở trong ban bộ có một người dâng lời, bảo rằng:
– Quân địch có lợi thế ở chiến hạm, ta chưa chuẩn bị trước thì thắng thua chưa biết thế nào. Xin vương cho trồng cọc ở hai bên cửa biển, khi nước thủy triều dâng lên, sai người lấy thuyền nhẹ giao chiến với quân địch, giả dạng thua chạy để mà đánh, tất quân của Hoằng Tháo tự như ngói mà tan vỡ!. -Vương cho là đúng, mới đưa mắt nhìn người nói, hóa ra là con trưởng Xương Ngập.
Tương truyền trước khi đánh quân Nam Hán, Ngô Quyền đã đóng đại bản doanh, chiêu binh tập mã ở khu vực Từ Lương Xâm (nay là quận Hải An, Tp. Hải Phòng), khu vực Vườn Quyến (quận Ngô Quyền, Tp. Hải Phòng) tương truyền xưa kia từng là nơi Ngô Quyền cho binh sĩ tập luyện để chuẩn bị chiến đấu, tại đây Ngô Quyền đã cho bắc một cây cầu gọi là cầu Gù nối liền doanh trại với làng Đông Khê để thuận tiện cho việc đi lại và tiếp tế của nghĩa quân và nhân dân. Nhân dân các làng quanh khu vực nghĩa quân đóng trại cũng đã hăng hái xung phong làm quân cận vệ và tham gia vào công việc chuẩn bị, gọt đẽo và đóng những cọc gỗ xuống lòng sông Bạch Đằng để đánh quân Nam Hán.
Thần tích và truyền thuyết dân gian các làng thuộc xã Nam Hải, Đằng Hải đều nói rõ từ Bình Kiều. Hạ Đoạn tới Lương Khê (thuộc An Hải, Hải Phòng) là khu vực đóng quân của Ngô Quyền.
Hơn 30 đền miếu thờ Ngô Quyền và các tướng phá giặc Nam Hán đã được phát hiện, đều phân bố tập trung ở vùng hạ lưu sông Bạch Đằng. Đồn trại của Ngô Quyền đóng tại các thôn Lương Xâm (An Hải, Hải Phòng), Gia Viên (nội thành Hải Phòng)
Truyền thuyết dân gian còn ghi nhớ chuyện 38 chàng trai làng Gia Viễn (Hải Phòng) do Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận dẫn đầu, đã tự vũ trang, xin theo Ngô Quyền phá giặc. Trai tráng các làng Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đằng Châu (Kim Động, Hải Hưng), người mang vũ khí, kẻ mang chiến thuyền, tìm đến cửa quân xin diệt giặc. Ba anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở Hoàng Pha (Hoàng Động, Thủy Nguyên), ông tổ họ Phạm ở Đằng Giang (An Hải, Hải Phòng) cũng chiêu mộ dân binh, hăng hái tham gia kháng chiến.
Huy động quân dân vào rừng đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt rồi cho đóng xuống lòng sông thành hàng dài tạo thành một bãi cọc, một bãi chướng ngại dày đặc ở hai bên sông. Khi triều lên mênh mông, thì cả bãi cọc ngập chìm, khi triều xuống thì hàng cọc nhô lên cản trở thuyền qua lại. Bãi cọc tăng thêm phần hiểu trở cho địa hình thiên nhiên.
Theo truyền thuyết và thần tích, Dương Tam Kha chỉ huy đạo quân bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đạo quân bên hữu ngạn, mai phục ở hai bên bờ sông để cùng phối hợp với thủy binh đánh tạt ngang vào đội hình quân địch và sẵn sàng tiêu diệt số quân địch trốn chạy lên bờ. Có thể suy đoán rằng, ngược lên phía thượng lưu là một đạo thủy quân mạnh phục sẵn làm nhiệm vụ chẹn đầu, chờ khi nước xuống sẽ xuôi dòng đánh vỗ mặt đội binh thuyền của địch.
Cũng theo truyền thuyết, thần tích người thanh niên Nguyễn Tất Tố, vốn giỏi bơi lặn và quen thuộc sông nước, được giao nhiệm vụ khiêu chiến, nhân lúc nước triều lên, giả thua chạy về nhử địch đuổi theo vượt qua bãi cọc vào cạm bẫy bên trong.
Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu. Quân Nam Hán không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. Ngô Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi. Vua Nam Hán đồn trú ở cửa biển để cứu trợ nhưng không làm gì được; thương khóc, thu nhặt quân lính còn sót rút về.
Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định trong sách Đại Việt Sử ký Toàn thư: Lưu Cung tham đất đai của người, muốn mở rộng bờ cõi, đất đai chưa lấy được mà đã hại mất đứa con của mình và hại cả nhân dân, tức như Mạnh Tử nói: “Đem cái mình không yêu mà hại cái mình yêu” vậy chăng?
Ngô Thì Sĩ nhận định trong sách Việt sử tiêu án: Lưu Nghiễm ngấp ngó Giao Châu, thừa lúc Đình Nghệ mới mất, cậy có quân ứng viện của Công Tiễn, chắc rằng có thể đánh một trận phá được Ngô Quyền, nhân thế lấy được nước Nam dễ như lấy đồ trong túi vậy. Nếu không có một trận đánh to để hỏa nhuệ khí của Lưu Nghiễm, thì cái tình hình ngoại thuộc lại dần dần thịnh lên, cho nên trận đánh ở Bạch Đằng là cái căn bản khôi phục quốc thống đó. Sau này Đinh, Lê, Lý, Trần còn phải nhờ dư liệt ấy. Võ công hiển hách của Ngô Quyền, tiếng thơm nghìn đời, đâu có phải chỉ khoe khoang một lúc bấy giờ mà thôi.
Theo sách Khảo tổng luận của Lê Tung: Ngô Tiên Chúa giết được nghịch thần Công Tiễn, phá được giặc mạnh Hoằng Thao.
Ngày 1/2/939 (10/1/Kỷ Hợi) Ngô Quyền lên ngôi, đóng đô ở Cổ Loa thuộc Phong Châu (nay là huyện Đông Anh, Tp. Hà Nội). Mùa xuân, Ngô Quyền bãi bỏ chức Tiết độ sứ, xưng là Ngô Vương, xây dựng nhà nước tự chủ, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô. Có quyền lực ở các châu mà cư dân là con cháu của người Lạc Việt, tức miền trung du và miền đồng bằng Bắc bộ, vùng Thanh Nghệ.
Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư gọi là Tiền Ngô Vương, chép rằng: Mùa xuân, vua bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục.
Sách Việt sử tiêu án chép: Vương giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương thị làm Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất.
Lý giải cho việc Ngô Quyền không chọn Đại La sầm uất và có truyền thống nhiều thế kỷ là trung tâm chính trị trước đó, các sử gia cho rằng có 2 nguyên nhân: tâm lý tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước từ kinh nghiệm cũ để lại:
– Ý thức dân tộc trỗi dậy, tiếp nối quốc thống xưa của nước Âu Lạc xưa, quay về với kinh đô cũ thời Âu Lạc, biểu hiện ý chí đoạn tuyệt với Đại La do phương Bắc khai lập.
– Đại La trong nhiều năm là trung tâm cai trị của các triều đình Trung Quốc đô hộ Việt Nam, là trung tâm thương mại sầm uất nhiều đời chủ yếu của các thương nhân người Hoa nắm giữ. Đại La do đó là nơi tụ tập nhiều người phương Bắc, từ các quan lại cai trị nhiều đời, các nhân sĩ từ phương Bắc sang tránh loạn và các thương nhân. Đây là đô thị mang nhiều dấu vết cả về tự nhiên và xã hội của phương Bắc, và thế lực của họ ở Đại La không phải nhỏ. Do đó lực lượng này dễ thực hiện việc tiếp tay làm nội ứng khi quân phương Bắc trở lại, điển hình là việc Khúc Thừa Mỹ nhanh chóng thất bại và bị Nam Hán bắt về Phiên Ngung. Rút kinh nghiệm từ thất bại của Khúc Thừa Mỹ, Ngô Quyền không chọn Đại La.
Theo Tạ Chí Đại Trường: Chiếm giữ Đại La xong, Ngô Quyền không đóng đô nơi phủ trị cũ mà lại tìm một vị trí bên lề để canh chừng. Tại sao? Vì còn tự ti thấy mình chưa đủ sức thay thế chủ cũ? Hay vì cái thế Đại La trống trải trong tầm sông nước dễ dàng cho sự xâm lấn của Nam Hán so với Cổ Loa khuất lấp hơn một ít mà vẫn còn có ngôi thành Kén của Mã Viện làm thế đương cự? Dù sao thì sự từ chối Đại La cũng là một dấu vết co cụm để tính chất địa phương nổi lên không những chỉ trong gia đình ông mà còn thấy trong cách ứng xử của các tập đoàn quyền lực khác ở phủ Đô hộ cũ nữa.
Những người thân cận, các tướng tá cùng các hào trưởng địa phương quy phục đã được nhà Ngô phong tước, cấp đất, như Phạm Lệnh Công ở Trà Hương (Nam Sách, Hải Dương), Lê Lương ở Ái châu, Đinh Công Trứ (cha của Đinh Bộ Lĩnh) ở Hoan Châu.
Viết di chúc cho Dương Tam Kha phò tá con mình là Ngô Xương Ngập
Ngày 14/2/944 (18/1/Giáp Thìn) qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Ngày 18/2 an táng, gọi là Lăng Ngô Quyền
5. Giải thưởng và tôn vinh
Vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam
Một trong 14 vị anh hùng dân tộc Việt Nam.
Phan Bội Châu xem như là vị Tổ Trung hưng của Việt Nam
Đền và lăng thờ Ngô Quyền ở quê hương Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Tp. Hà Nội).
Có gần 50 nơi khác có liên quan thờ Ngô Quyền và các tướng lĩnh thuộc triều đại Ngô Vương, trong đó nhiều nhất thuộc vùng đất Hải Phòng (34 di tích), Thái Bình (3 di tích), Hà Nam (1 di tích), Phú Thọ (1 di tích), Hưng Yên (3 di tích).
Thành phố Hải Phòng có nhiều di tích gắn liền với Ngô Quyền cùng với chiến thắng Bạch Đằng năm 938.
Các cơ sở thờ tự:
– Tiền Ngô Vương lăng (Cam Lâm, Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội).
– Đền Già (Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên): thờ Ngô Quyền và Hoàng hậu Dương Thị Vy.
– Đền Vương (Thị trấn Vương, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên): thờ Ngô Quyền và Hoàng hậu Dương Thị Vy.
– Đình làng Nghĩa Chế (Dị Chế, Tiên Lữ, Hưng Yên): thờ Ngô Quyền, Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn.
– Đình Hiền Lương (An Tiến, Mỹ Đức, Hà Nội): thờ Ngô Quyền.
– Đình Thượng Tiết (Đại Hưng, Mỹ Đức, Hà Nội): thờ Ngô Quyền.
– Từ Lương Xâm (Nam Hải, An Hải, Hải Phòng) đại bản doanh của nghĩa quân: thờ Ngô Vương Quyền cùng các tướng lĩnh.
– Tượng đài Ngô Quyền (Nam Hải, An Hải, Hải Phòng).
– Đền thờ Ngô Quyền (Thị trấn Mỹ Đức, Thủy Nguyên, Hải Phòng): thờ Ngô Quyền.
– Đền Trạng Chiếu (Hải Triều, Tân Lễ, Hưng Hà, Thái Bình): thờ Ngô Quyền và Phạm Đôn Lễ.
– Đền thờ Ngô Quyền (Cam Lâm, Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội): thờ Ngô Quyền.
– Đình Hải Triều (Tân Lễ, Hưng Hà, Thái Bình): thờ Ngô Quyền.
– Đình An Trì (Hùng Vương, Hồng Bàng, Hải Phòng): thờ Ngô Quyền, Ngô Xương Ngập.
– Đình Lạc Viên (108 Lạc Xuân Đài, Lạc Viên, Ngô Quyền, Hải Phòng): thờ Ngô Quyền.
– Đền Chẹo (Nam Cường, Tam Nông, Phú Thọ): thờ Ngô Quyền.
– Đình Ngô Xá (Nguyễn Xá, Bồ Đề, Bình Lục, Hà Nam): thờ Ngô Quyền và Hoàng hậu Dương Thị Vy.
– Đình Ninh Xá, xã Lê Ninh, Tx. Kinh Môn, Hải Dương thờ Ngô Quyền và Phùng Hưng.
– Đình Đông Khê, phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, Tp Hải Phòng: Thờ Ngô Vương Thiên Tử cập tùy tòng bộ chúng
– Đình Phụng Pháp, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, Tp Hải Phòng: Thờ Ngô Vương Quyền
– Đình Nam Pháp, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, Tp Hải Phòng: Thờ Ngô Vương Quyền
– Đình Hàng Kênh, phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, Tp Hải Phòng: Thờ Ngô Vương Quyền
– Miếu Trung Hành, phường Đằng Lâm, quận Hải An, Tp Hải Phòng: Thờ Ngô Vương Quyền
– Miếu Xâm Bồ, phường Nam Hải, quận Hải An, Tp Hải Phòng: Thờ Ngô Vương Quyền. Ngoài ra các di tích đình miếu thuộc các làng cổ tại Quận Hải An, Tp Hải Phòng đều thờ Đức Ngô Vương Thiên Tử làm thánh thành hoàng.
Nhiều đường phố mang tên Ngô Quyền như tại quận Hoàn Kiếm và Hà Đông, Hà Nội, thành phố Thanh Hóa, thị xã Quảng Yên, thành phố Đà Nẵng, thành phố Quy Nhơn… Tên ông cũng là tên của một quận nội thành của Hải Phòng. Nhiều trường học ở Việt Nam cũng mang tên Ngô Quyền.
6. Tham khảo
a) Internet
– Ấn phẩm
Bản Phả của Hán Quốc công Ngô Lan (Đinh Dậu 1477, niên hiệu Hồng Đức Lê Thánh Tông)
Tôi chắc chắn đồng ý với ý kiến của bạn