Ngô Miễn Thiệu (1499 – 1556)
1. Thông tin
– Tên gọi: Ngô Miễn Thiệu (吳勉紹) hay Ngô Nguyễn Thiệu
Tự: Thuận Nhã
Hiệu: Trúc Khê
Tước hiệu: Lý Khê bá, Trình Khê hầu
Thụy hiệu: Ngu Sơn
– Sinh năm 1499 (Kỷ Mùi) tại xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, Kinh Bắc, Đại Việt (nay là xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam)
Mất năm 1556 (Bính Thìn) (57 tuổi) tại Đại Việt (nay là Việt Nam)
– Giới tính: Nam
– Quốc tịch: Đại Việt
Dân tộc: Kinh
– Là chính trị gia thời nhà Lê trong lịch sử Việt Nam.
2. Hôn nhân và gia đình
a) Thân thế
– Ông nội là Ngô Thiền Nho
– Bố là Ngô Thầm
b) Hôn nhân và con cái
– Có 4 người con:
Con trai: Ngô Diễn, Ngô Uông, Ngô Dịch
Con gái: Ngô Thị
Con nuôi: Nguyễn Gia Mưu
c) Hậu duệ
– Cháu nội: Ngô Huyền Sơn, Ngô Nghị Trai, Ngô Cường Nghị
3. Con người và tính cách
Traonha.wordpress.com có nội dung: Ngô Miễn Thiệu nổi tiếng thông minh mẫn tiệp, là người hội tụ được truyền thống hiếu học và khoa bảng của dòng họ Ngô […] Không chỉ là bậc quan tài năng mẫn cán, mà còn là người thầy giỏi giang mẫu mực và đức độ, vì vậy đã đào tạo nên nhiều bậc nhân tài cho đất nước, ngay trong lúc cư quan nhậm chức, cũng nhưu lúc nghỉ hưu, mở trường dạy học tại nhà quê.
4. Cuộc đời và sự nghiệp
Con một trong gia đình
Triều Lê
Năm 1518 (Mậu Dần, Lê Chiêu Tông, Quang Thiệu thứ 3) khi 19 tuổi, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên)
Giữ các chức quan Thượng thư Bộ Lại kiêm Đô ngự sử, Chưởng Hàn lâm viện sự, Nhập thị Kinh diên và tước Lý Khê bá
Năm 1527 (Đinh Hợi) Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ông không chịu theo nhà Mạc làm quan nên về quê ở Tam Sơn mở trường dạy học.
Gia phả họ Ngô Tam Sơn chép: Sau khi về quê, con cháu đến chào, có người hỏi sao không ở lại làm quan mà lại về quê sống cảnh điền viên. Ông nói: “Ta làm tôi nhà Lê, cha Bảng nhãn, con Trạng nguyên, nếu nay theo Mạc thì chẳng khác nào Triệu Phổ mặc áo đội mũ nhà Chu mà đứng trong triều vua nhà Tống”.
Học trò theo học rất đông, trong đó tiêu biểu có Nguyễn Gia Mưu.
Nguyễn Gia Mưu khi đã 28 tuổi, đến xin học. Ngô Miễn Thiệu thấy học trò đã lớn tuổi nên thử ý chí và tinh thần hiếu học bằng việc ra điều kiện: Phải mang xôi trâu, nén bạc đến cho thầy thì mới được theo học. Gia Mưu bèn lẻn về thưa với mẹ, người mẹ thương con nên đem việc này đến bàn với quan nghè và cũng là em chú là Nguyễn Hữu Thường. Thấy cháu có ý chí tiến thủ bằng con đường hoạn lộ nên chú ruột nhận lời nhưng không cho người cháu biết. Học với thầy Thiệu khiến Gia Mưu bộc lộ được đức tính của người học trò thông minh, chăm học, hiếu thảo. Được thầy yêu quý và tin tưởng và khả năng của người học trò, liền thuận lòng mà gả con gái của mình cho. Nhưng từ khi có vợ, Gia Mưu lại học hành có phần chểnh mảng, liền hỏi sự tình con rể thì được biết việc chăm sóc của con gái mình dành cho chồng chưa được tận tình chu đáo. Thầy Thiệu đành khuyên bảo và yêu cầu con gái phải chuyên tâm hơn. Kết quả sau 5 năm dùi mài kinh sử thì Gia Mưu cũng đỗ Hương cống khi 33 tuổi và đỗ Tiến sĩ khi 37 tuổi.
Năm 1533 (Quý Tỵ) Nguyễn Kim lập Lê Duy Ninh lên làm vua ở Ai Lao, Mạc Đăng Dung thấy thế bèn nói dối với nhà Minh rằng Lê Ninh là con của Nguyễn Kim, nhưng nhà Minh vẫn chưa công nhận nhà Mạc được thành lập mà sai Cừu Loan làm Tổng đốc quân vụ, Binh bộ Thượng thư Mao Bá Ôn làm Tham tán Quân vụ, mang 1 đạo quân áp sát biên giới. Mao Bá Ôn gửi điệp văn hỏi tội nhà Mạc kèm theo bài thơ Vịnh bèo với hàm ý dọa nạt.
Triều đình không ai đối được bèn cho người về Tam Sơn mời Trạng Thiệu giúp đỡ. Trạng Thiệu đành phải lên đường vì quốc thể chứ không vì danh lợi. Trước khi rời nhà, ông nói với con cháu trong nhà rằng: Ta đành phải đóng kẻ Triệu Phổ vậy! Nếu không như thế thì trái lệnh vua Mạc, không biết họ Ngô Tam Sơn rồi sẽ ra sao, mà nếu quân Bắc tràn vào thì sinh linh trăm họ sẽ điêu đứng, thống khổ mất thôi…
Trạng Thiệu đọc xong bài xướng Vịnh bèo liền nói: Nếu không có lời lẽ thống thiết thì làm sao lui được quân Minh, nhà vua muốn thì có khó gì! Bèn đứng lên đi lại và đọc bài họa cho viên quan Bộ Lễ chép, ký tên là Đầu Mục Mạc Đăng Dung.
Ngay sau đó, Mạc Đăng Doanh giữ lại làm quan giữ chức Thượng thư bộ Lễ. Mao Bá Ôn biết nước Nam còn có người tài, không dễ khuất phục nên bèn rút quân. Đương thời khen Trạng Thiệu có tài “Lập thi thoái bộ”, nghĩa là đứng làm thơ mà lui được giặc.
Ông còn giữ các chức Đông các Đại học sĩ, Ngự sử đài Đô ngự sử, Hàn lâm viện Thị thư và thăng tước Trình Khê hầu.
5. Tác phẩm và công trình tiêu biểu
Điệp văn và bài họa Vịnh bèo
6. Giải thưởng và vinh danh
Vị trạng nguyên duy nhất của dòng họ Ngô
Thành phố Bắc Ninh có 1 con đường mang tên ông
7. Tham khảo
– Internet
– Ấn phẩm
Bản Phả của Hán Quốc công Ngô Lan (Đinh Dậu 1477, niên hiệu Hồng Đức Lê Thánh Tông)
Các nhà khoa bảng Việt Nam của Ngô Đức Thọ (NXB Văn học)
Văn bia đề danh tiến sĩ Việt Nam của Viện nghiên cứu Hán Nôm (2008, NXB Giáo dục)
Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục